Chữ Nôm là một hiện tượng nổi bật trong lịch sử phát triển của nền văn hoá dân tộc Việt Nam. Nói một cách giản dị, đó là một thứ văn tự mượn hình hài và quy tắc tạo chữ của hệ thống chữ Hán để tạo chữ, ghi âm tiếng Việt, tất nhiên là với cả một sự sáng tạo tuyệt vời của ông cha ta.
Vậy, Chữ Nôm hình thành từ khi nào? Đây là câu hỏi mà rất nhiều học giả đã bỏ bao công sức nghiên cứu để xác định. Có thể sớm nhất là ngay từ đầu Công Nguyên, khi chữ Hán được truyền bá vào Việt Nam, thì những chữ “Nôm” lẻ tẻ dùng để ghi tạm những tên đất, tên người, tên sản vật bản địa đã được tạo ra và ghi xen lẫn vào các văn bản chữ Hán. Nhưng điều này không có nghĩa là chữ Nôm, như một hệ thống văn tự biểu âm biểu ý cho tiếng Việt, đã được hình thành từ sớm như vậy. Từ chỗ những chữ Nôm lẻ tẻ được tạo ra một cách lâm thời, đến chỗ chế tác và định hình chữ Nôm thành một hệ thống văn tự, là một quá trình khá dài. Cho đến nay, qua nghiên cứu của các học giả, ta có thể khẳng định được là từ thời nhà Trần (thế kỷ XIII), chữ Nôm đã thực sự trở thành một thứ văn tự hẳn hoi với một khả năng hành chức độc lập.
Nhìn quen mà lạ
Nhiều người chỉ đọc thông thạo chữ Hán, khi thoáng nhìn văn bản Nôm, cứ ngỡ có thể dễ dàng đọc hiểu. Nhưng càng đọc kỹ, họ càng ngạc nhiên: hóa ra mình chẳng hiểu gì cả! Điều này thực ra cũng dễ hiểu thôi. Bởi chữ Nôm, tuy mang dáng dấp chữ Hán, lại có cách tạo chữ vô cùng độc đáo. Ngoài các phương thức hội âm, hội ý, hình thanh quen thuộc, chữ Nôm còn được hình thành nhờ những liên tưởng, kết nối ngữ nghĩa, thậm chí nhờ cả cấu trúc “chìm – nổi” mà ít ai ngờ tới.
Cấu trúc chữ Nôm – vài “chìa khóa” giải mã
Về cấu trúc chữ Nôm, đã có nhiều học giả dày công nghiên cứu và đưa ra những sơ đồ về các loại cấu trúc. Ở đây, thay vì đi sâu vào sơ đồ, ta hãy cùng nhấn mạnh những điểm then chốt trong cách tiếp cận và phân tích chữ Nôm:
Theo GS. Nguyễn Quang Hồng, với những chữ Hán được mượn nguyên vẹn vào văn bản chữ Nôm, đôi khi đọc nguyên âm Hán Việt cũng có khi đọc “chệch” một chút, thì ta sẽ không bàn tới cấu trúc của những chữ “Nôm giả tá” như vậy nữa. Tuy nhiên, nếu một chữ Hán được mượn làm chữ Nôm với một phép “gia giảm” nào đó thì chữ đó chính là đối tượng quan trọng của việc phân tích cấu trúc chữ Nôm. Ví dụ của trường hợp “giảm” có thể nhắc tới là chữ Một 殳, có thể được truy nguyên từ chữ “một” 没 nhưng bị giản lược đi một thành phần; trong khi đó, trường hợp “gia” thì có chữ Đĩ 𡚦, là do chữ “nữ” 女 thêm một cái “chấm” mà thành.
Bên cạnh đó, việc phân tích cấu trúc chữ Nôm tự tạo theo cơ chế phiên ghép chứ không phải gia giảm như trên thì phức tạp hơn. Khi tiếp xúc với văn bản Nôm, chúng ta sẽ bắt gặp những chữ Nôm không hề có mặt trong hệ thống chữ Hán, và đây chính là những đặc điểm giúp chữ Nôm khu biệt với chữ Hán. Ở đây, theo GS. Nguyễn Quang Hồng, ta cần lưu ý những hiện tượng như sau:
1. Những chữ Nôm gồm hai thành tố đều là biểu âm, có thể gọi là chữ Nôm hội âm. Ví dụ như: Trăng/Giăng < blăng 𢁋 (巴 ba+ 陵lăng), Trước 𨎟< klươc (略 lược + 車 cư), khi người Việt dùng chữ Hán để ghi tiếng Việt thế kỷ XVII về trước, lúc đó, tiếng Việt còn nhiều tổ hợp phụ âm kép như bl, ml, tl…
2. Những chữ Nôm với bộ thủ không thể nào giải thích được sáng rõ nếu không tìm cách vượt ra khỏi bản thân chữ vuông chính thống, mà phải liên hệ nó theo quan hệ liên kết ngang trong văn bản hoặc quan hệ liên tưởng dọc trong hệ thống văn tự. Chẳng hạn như ta bắt gặp bộ “túc”𧾷 trong chữ Lỡ (𧾷+ 呂) ở câu “Tối tăm lỡ bước đến đây” (Lục Vân Tiên). Tại sao chữ Lỡ lại có bộ thủ là bộ “túc” 𧾷 bên cạnh chữ Lữ 呂 biểu âm mà không phải là một bộ thủ khác "hợp lí" hơn? Thật khó giải thích được nếu như ta không đặt nó vào mối liên kết ngang với chữ Bước 𨀈 (𧾷+北) ngay sau đó. Sự liên kết bộ thủ như thế là có tính lâm thời, vào những văn cảnh khác, chữ Lỡ hoàn toàn có thể mang những bộ thủ khác thích hợp hơn. Lại có trường hợp như chữ Gần𧵆, thường được viết với bộ “bối” 貝, ý niệm về “gần” lại dùng bộ “bối” để ghi, thật khó lòng hình dung nổi. Nhưng khi ta liên hệ Gần với Xa (hai tiếng trái nghĩa trong cùng một trường nghĩa) thì mọi thứ lại trở nên sáng tỏ, chữ Xa 賒 trong văn bản Nôm là mượn chữ Hán Xa 賒 (có nghĩa là mua chịu, trả sau). Vì chữ Xa có bộ “bối” 貝 nên chữ Gần dĩ nhiên cũng có thể mang bộ “bối”貝 trong quan hệ liên tưởng với Xa.
3. Một cấu trúc nữa của chữ Nôm, rất lấy làm “bí hiểm” (theo cách nói của GS. Nguyễn Quang Hồng), đó là cấu trúc chìm - nổi trong chữ Nôm tự tạo. Ví dụ như chữ Mười/Mươi: ngoài những chữ như 𨒒 ta còn bắt gặp những chữ khác như 辻 hay 𨑮. Thật khó giải thích được tại sao bộ “xước” ⻍ lại có mặt ở đây trong các chữ viết tắt nếu không liên hệ nó với bộ “xước” trong chữ “mại” 迈 biểu âm ở dạng chữ đầy đủ hơn. Ở đây, bộ phận bị lược đi là bộ phận biểu âm, nhưng để lại bộ thủ. Chính hiện tượng này trong cấu trúc chữ Nôm tự tạo đã khiến học giả Nguyễn Quang Hồng nghĩ đến sự phân định cấu trúc nổi và cấu trúc chìm của chữ Nôm. Cấu trúc nổi là cấu trúc hình thức, theo cách này, trong chữ Mười/Mươi 辻 hay 𨑮, cấu trúc nổi chính là bộ “xước” ⻍+ “thập” 十 hay 什 còn cấu trúc chìm chính là một nửa của chữ mại 迈 với vai trò là bộ phận biểu âm.
Còn có khá nhiều những khía cạnh và hiện tượng khác liên quan đến vấn đề cấu trúc chữ Nôm. Trên đây chỉ là nhấn mạnh vào những gì làm nên đặc thù của chữ Nôm, và những điều này sẽ giúp người tiếp xúc với văn bản Nôm có thêm những chiếc chìa khoá để “giải mã” những chữ Nôm có cấu trúc lạ.
Từ những phân tích trên, ta cũng có thể thấy được tính “bất ổn định” của chữ Nôm song cũng thấy được sự sáng tạo, cơ động và linh hoạt của tiền nhân khi kiến tạo và sử dụng hệ thống văn tự độc đáo này.
(Theo Một số vấn đề và khía cạnh nghiên cứu chữ Nôm trong tuyển tập Ngôn ngữ. Văn Tự. Ngữ văn của GS. Nguyễn Quang Hồng)
Nghiên cứu về Chiến tranh Việt Nam đã trải qua nhiều thay đổi quan trọng trong vài thập kỷ gần đây. Không còn bị giới hạn trong những tường thuật tập trung vào Hoa Kỳ về hoạch định chính sách và các trận đánh, học giới ngày càng đặt cuộc xung đột trong bối cảnh rộng lớn hơn của Việt Nam, khu vực, và toàn cầu. Các công trình của Pierre Asselin và Lien-Hang T. Nguyễn đứng ở vị trí tiên phong của sự thay đổi này, mang đến những nghiên cứu sâu sắc và phân tích giàu tính học thuật, làm sáng tỏ sự phức tạp của cuộc chiến. Những ấn phẩm của họ—từ nghiên cứu của Pierre Asselin về chiến lược cách mạng của Hà Nội cho đến khung quốc tế của Lien-Hang T. Nguyễn về cuộc xung đột, cùng với công trình biên tập chung The Cambridge History of the Vietnam War—cho thấy cuộc chiến là một cuộc đấu tranh đa diện được định hình bởi hệ tư tưởng, ngoại giao và xã hội. Bài điểm sách này khảo sát một số đóng góp quan trọng của họ, nhấn mạnh cách các tác phẩm này đồng thời phá bỏ những huyền thoại cũ, làm rõ sự phức tạp của vấn đề thống nhất dân tộc, và mở rộng lăng kính sử học về một trong những cuộc chiến tranh tàn khốc nhất thế kỷ XX.
Vietnam’s American War – A New History (Ấn bản thứ 2) của Pierre Asselin, Cambridge University Press, 2024
Chiến tranh Việt Nam không thể được hiểu chỉ như một chuỗi các trận đánh. Để nắm bắt được ý nghĩa thực sự của nó, cần phải xem xét các yếu tố chính trị, xã hội và văn hóa rộng lớn hơn đã định hình chiến lược cộng sản. Trong ấn bản mở rộng lần thứ hai, Vietnam’s American War vẫn tập trung giải thích tại sao và bằng cách nào Hà Nội giành thắng lợi, nhưng nay đã bao gồm một phân tích sâu sắc hơn nhiều về chính trị và xã hội miền Nam Việt Nam. Asselin bác bỏ huyền thoại về một nước Việt Nam thống nhất bằng cách chỉ ra những chia rẽ sâu sắc bị Mỹ can thiệp làm trầm trọng thêm. Với hơn ba mươi lăm hình ảnh mới, cuốn sách nhấn mạnh tính chất nội chiến và bi kịch của cuộc xung đột. Đây là một tác phẩm vừa chi tiết, nguyên bản, vừa lôi cuốn, tiếp tục giữ vai trò trọng yếu trong nghiên cứu.
The Vietnam War (Volume III: Endings and Aftermaths) do Lien-Hang T. Nguyễn (Đại học Columbia) và Pierre Asselin (Đại học Bang San Diego) biên tập, Cambridge University Press, 2024
Tập cuối cùng của The Cambridge History of the Vietnam War đặt những năm cuối cùng và hậu quả của chiến tranh vào trong bối cảnh trong nước, khu vực và toàn cầu, bao gồm cả các di sản pháp lý, hoàn cảnh và kí ức. Giai đoạn sau của cuộc xung đột đánh dấu một khoảnh khắc quyết định trong Chiến tranh Lạnh, được định hình bởi sự chia rẽ Xô–Trung, sự hòa dịu Trung–Mỹ, chính sách hòa hoãn của các siêu cường, và các phong trào văn hóa xuyên quốc gia. Việc mở rộng chiến tranh sang Campuchia và Lào càng nâng cao tầm quan trọng về địa lý chính trị của nó. Sau sự sụp đổ của Sài Gòn và thống nhất đất nước năm 1975–76, chính sách đối với người Hoa, và những khó khăn trong quản lý kinh tế của Hà Nội đã tạo ra một cuộc khủng hoảng tị nạn quy mô lớn. Làn sóng di cư này đã làm thay đổi chính sách tị nạn quốc tế và biến đổi cấu trúc nhân khẩu học của nhiều thành phố ở Bắc Mỹ và châu Âu, cho thấy tác động lâu dài của chiến tranh.
Hanoi’s War – An International History of the War for Peace in Vietnam của Lien-Hang T. Nguyễn, The University of North Carolina Press, 2016
Hầu hết các công trình nghiên cứu về Chiến tranh Việt Nam tập trung vào sự can dự của Hoa Kỳ và quá trình “Mỹ hóa” xung đột. Lien-Hang T. Nguyễn, tuy nhiên, đã đặt cuộc chiến trong bối cảnh quốc tế, theo dõi nỗ lực của Bắc Việt Nam trong việc tiến hành chiến tranh và nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm kết thúc nó. Cuốn sách đưa độc giả đi từ đồng bằng sông Cửu Long, vùng châu thổ sông Hồng bị ném bom, đến các trung tâm quyền lực của Hà Nội, Sài Gòn và Washington, cũng như bàn đàm phán ở Paris và các thủ đô chính trị ở Bắc Kinh và Moskva. Lien-Hang T. Nguyễn chứng minh rằng hòa bình ở Việt Nam gần như không có cơ hội, khi cuộc chiến thậm chí còn trở nên khốc liệt hơn trong thời gian diễn ra đàm phán Paris. Dựa trên tài liệu lưu trữ chưa từng được khai thác từ Việt Nam và nhiều nơi khác, tác giả mang đến một bức tranh đa chiều, kết hợp các góc nhìn từ cả hai miền Việt Nam, Liên Xô, Trung Quốc và Hoa Kỳ, qua đó định hình lại hiểu biết về phạm vi và tính chất của cuộc xung đột.
Hanoi’s Road to the Vietnam War, 1954–1965, của Pierre Asselin, University of California Press, 2015
Bắt đầu với Hiệp định Genève năm 1954, chấm dứt Chiến tranh Đông Dương và chia cắt đất nước, Asselin theo dõi quá trình Hà Nội từ kỳ vọng thống nhất trong hòa bình đến đối đầu vũ trang với Hoa Kỳ. Dựa trên nguồn tư liệu lưu trữ mới từ Việt Nam và nhiều quốc gia khác, ông phân tích những cuộc tranh luận nội bộ và quyết định chiến lược đã dẫn đến chiến tranh. Phân tích của ông chỉ ra rằng, mặc dù Washington chịu trách nhiệm trong việc leo thang xung đột, nhưng các lãnh đạo Bắc Việt Nam cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra hoàn cảnh dẫn đến một trong những cuộc chiến tranh tàn khốc nhất của Chiến tranh Lạnh.
A Bitter Peace – Washington, Hanoi, and the Making of the Paris Agreement, của Pierre Asselin, The University of North Carolina Press, 2002
Tác phẩm A Bitter Peace của Asselin nhấn mạnh vai trò trung tâm của ngoại giao trong việc định hình hồi kết của Chiến tranh Việt Nam. Ông tái hiện lại các cuộc đàm phán bí mật dẫn đến Hiệp định Paris năm 1973, chấm dứt sự tham gia trực tiếp của Hoa Kỳ nhưng không mang lại hòa bình bền vững. Được ký kết trong bối cảnh căng thẳng, hiệp định này vốn mong manh và không thể duy trì lâu dài. Đối với Washington, thỏa thuận đảm bảo việc trao trả tù binh, rút quân trong danh dự và duy trì uy tín trong Chiến tranh Lạnh. Đối với Hà Nội, nó đảm bảo việc rút quân Mỹ, bảo vệ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cải thiện triển vọng thống nhất. Dựa trên các tài liệu lưu trữ mới từ Việt Nam, Hoa Kỳ và Canada, Asselin cho thấy vai trò sáng tạo của Hà Nội, Mặt trận Giải phóng và Sài Gòn trong việc hình thành một thỏa thuận cuối cùng dù vẫn còn khiếm khuyết.
Nhìn chung, các công trình của Pierre Asselin và Lien-Hang T. Nguyễn đã làm phong phú thêm đáng kể sử học về Chiến tranh Việt Nam. Họ chứng minh rằng đây không chỉ là một bi kịch của Hoa Kỳ mà còn là một bi kịch sâu sắc của người Việt Nam, bắt nguồn từ những chia rẽ nội bộ và được định hình bởi bối cảnh quốc tế. Bằng cách nhấn mạnh vai trò chủ động của các lãnh đạo Hà Nội, sự phức tạp của chính trị miền Nam, và bối cảnh Chiến tranh Lạnh, công trình của họ phá vỡ những mô hình cũ và khơi gợi những cách diễn giải mới. Hơn nữa, các phân tích về ngoại giao, di cư và ký ức cho thấy rằng di sản của cuộc chiến còn kéo dài vượt xa năm 1975, tiếp tục định hình xã hội và chính sách trên khắp thế giới. Với phạm vi rộng lớn, tính độc đáo và độ sâu tư liệu, những tác phẩm này là đóng góp thiết yếu cho các học giả và sinh viên mong muốn hiểu chiến tranh Việt Nam như một sự kiện vừa mang tính quốc gia vừa mang tính quốc tế có ảnh hưởng lâu dài.
1. Lời dẫn
Trong số 56 dân tộc sống trên lãnh thổ Trung Quốc, thì Choang (壯 Zhuang) là dân tộc có số dân đông thứ hai (sau dân tộc Hán), có đến 15555820 người (theo số liệu điều tra năm 1990). Người Choang cư trú chủ yếu ở tỉnh Quảng Tây, một số ít ở tỉnh Quý Châu và Vân Nam. Đó cũng là địa bàn cư trú lâu đời của dân tộc này, mà về nguồn gốc là một chi nhánh trong cộng đồng các dân tộc Bách Việt thời cổ đại.
Nếu như trong cộng đồng Bách Việt có hai chi nhánh lớn nằm ở vùng cực Nam của khối này (bao gồm từ Quảng Tây đến Vân Nam ở Trung Quốc và Bắc Bộ, Trung Bộ của Việt Nam) thì đó là Tây Âu và Lạc Việt. Trên đại thể, người Choang cũng như người Tày, người Nùng ở Việt Nam, chủ yếu liên quan với nhóm Tây Âu, thuộc ngữ hệ Tai-Kadai; còn người Mường, người Việt (Kinh), vốn là thuộc ngữ hệ Nam Á (nhánh Môn-Khmer), sau một quá trình hòa nhập với các nhóm người Tày-Nùng và có thể cả Nam Đảo mà hình thành nên nhóm Lạc Việt. Chính từ mối quan hệ gần gũi về nguồn gốc cũng như về địa bàn cư trú như vậy, giữa hai ngôn ngữ Việt và Choang hẳn còn giữ lại ít nhiều những đơn vị ngôn ngữ tương đồng, dù xét về quan hệ cội nguồn hay quan hệ tiếp xúc ngôn ngữ.
Trên cơ sở nghiên cứu so sánh và đối chiếu một số tư liệu viết bằng chữ Nôm Việt và chữ vuông Choang, là những thứ văn tự cổ truyền của hai dân tộc này, tác giả bài này nhận thấy giữa hai ngôn ngữ đã và đang có không ít những ngữ tố gần âm gần nghĩa, có thể là cùng gốc Tai-Kadai, cũng có thể là do sự tiếp xúc vay mượn lẫn nhau. Mục đích của bài này chỉ là trình bày một danh sách những ngữ tố như vậy, nhằm cung cấp tư liệu tham khảo cho những cuộc khảo cứu có liên quan.
Trong danh sách này, các ngữ tố tương ứng giữa Việt (V) và Choang (Zhuang: Z) sẽ được trình bày theo mấy thông tin như sau:
(1) Chữ viết hiện hành (theo mẫu tự La-tinh). Điều cần lưu ý ở đây là chữ Choang dùng các chữ cái phụ âm ở cuối âm tiết để ghi thanh điệu, chứ không dùng dấu thanh như chữ Quốc ngữ của tiếng Việt. Vì lý do kỹ thuật, ở đây không tiện dùng hình thức văn tự cổ truyền (chữ Nôm Việt và chữ vuông Choang) để ghi các ngữ tố đang xét như trong các tư liệu gốc và các tự điển đã ghi.
(2) Phiên âm theo ký hiệu ghi âm quốc tế IPA. Đối với các ngữ tố Choang, công việc này hoàn toàn dựa vào cuốn Cổ Tráng tự tự điển. Đối với các ngữ tố Việt, cố gắng theo cách ghi tương đối phổ biến. Tuy nhiên, để bớt phần phức tạp, xin tạm lược bỏ các dấu phụ trỏ âm lướt và trỏ nguyên âm đôi, “âm đệm” (medial) [-ṷ-] sẽ được ghi bằng ký tự [w]. Khi có sự đối lập “ngắn” và “dài” ở nguyên âm tạo đỉnh âm tiết, sẽ dùng dấu “ngắn” [ˇ] cho tiếng Việt và dấu “dài” [:] cho tiếng Choang. Dùng chữ số để ghi thanh điệu (trong đó số 7 và 8 là những số ghi thanh “nhập”).
(3) Nghĩa cơ bản trùng hợp giữa hai ngôn ngữ (bỏ qua những nét nghĩa chênh nhau). Chữ idem dùng để trỏ cùng nghĩa như ngữ tố Việt. Chủ yếu sử dụng các tự điển để chua nghĩa cho các ngữ tố đang xét.
(4) Dẫn ra các câu thí dụ (tận dụng các tự điển đang có) và nếu cần cho thêm thuyết minh bổ sung. Một số trường hợp có thể tạm khuyết thí dụ.
(5) Ký hiệu <> dùng để trỏ quan hệ đối chiếu và ngăn cách dẫn liệu từ hai ngôn ngữ đang xét.
Những ngữ tố mà chúng tôi nhận thấy rõ là cả hai ngôn ngữ Việt và Choang đều tiếp nhận từ Hán ngữ, dù đã được đồng hóa cao độ, thì đều không đưa vào danh sách những ngữ tố cùng gốc Việt – Choang được xem xét ở đây.
2. Ngữ liệu đối chiếu
(V) au [ău1]. Màu sắc (thương là đỏ) tươi thắm. Đôi má đỏ au <> (Z) aeuj [au3] . Màu tím. Va aeuj ‘hoa tím’.
2. (V) ba [ba1]. Trong ba ba: loài rùa ở nước ngọt, mai trơn. <> (Z) ba [pa1]. Idem.
3.(V) ban [ban1]. Một khoảng thời gian trong ngày. Ban trưa. Ban chiều. <> (Z) ban [pa:n1]. Idem. Ban ringz (ban trưa).
4. (V) bậc [bɤ̆k8 ].Tầng, nấc, ngôi thứ. Bậc thang. Bậc thềm. <> (Z) mbaek [bak7] : Idem. Aen lae neix miz caet mbaek ‘Vậy là có bảy bậc’.
5. (V) bầu [bɤ̆u2] / bù [bu2]. Trái bầu, vỏ trái bầu, vật hình trái bầu.<>(Z) mbaeuj [bau3] / byuz [pju-2]. Idem. mbaeuj laeuj ‘bầu rượu’.
6. (V) bầy [bɤ̆i2]. Đám đông động vật hoặc người. Lũ, nhóm. Bầy thú, bầy chim, bầy trẻ con. <> (Z) mbaiz [ba:i2]. Idem. mbaiz moz ‘một bầy bò’.
7. (V) bèo [bƐu2]. Loài thực vật sống nổi trên nước. Băm bèo, thái rau. Rẻ như bèo. <> (Z) biuz [pi:u2]. Idem. Rin cauh biuz mbouj sanq ‘ném đá khó bề khiến cho bèo tan’.
8. (V) bẻo [bƐu3]. Trong chà bẻo, chèo bẻo: Tên một loài chim, lông đen, đuôi dài, chẻ thành hai nhánh. <> (Z) beuj [pe:u3]. Trong ciq beuj: Idem.
9. (V) bỏ [bɔ3]. Đặt, để vật vào nơi nào đó. Tiền bỏ ống. <> (Z) box [po4]. Idem. Dawz gaeu box gang ‘bỏ gạo vào chum’.
10. (V) bóc [bɔkp7]. Lột bỏ lớp vỏ ngoài. Bóc lạc. Bóc ngắn cắn dài. <> (Z) bok [po:k7]. Cởi bỏ lớp bọc ngoài. Bok ndang ‘cởi áo’.
11. (V) bón [bɔn5]. Đút cho ăn dần từng tí một. Bón trẻ ăn. Bóm từng thìa cháo cho người ốm. <>(Z) bonj [po:n3]. Idem. bonj lungdik ‘bón trẻ ăn’.
12. (V) bọn [bɔn6]. Một nhóm người, một lũ người. Bọn trẻ. Bọn con buôn. <> (Z) mbongh [bo:ŋ6]. Một số đông người. mbongh mawz ‘lũ chúng mày’.
13. (V) bọt [bɔt6]. Bong bóng nước nhỏ li ti. Bọt bèo. <> (Z) foed [fot8]. Idem. Foed fauz ‘bong bóng nước’.
14. (V) bô [bo1]. Trong bô bô: Nói to, không giữ mồm giữ miệng. Bô bô cái mồm. <> (Z) boq [po5]. Idem. Gangj boq ‘nói phét, ba hoa’.
15. (V) bố [bo5]. Người cha. Con trai giống cha. <> (Z) boh [po6]. Idem. De dwg boh gou ‘Ông ấy là bố tôi’.
16. (V) bớt [bɤt7]. Làm cho ít đi, giảm thiểu. Bớt ăn bớt mặc. <> (Z) mbaet [bat7]. Idem. Mbaet gwn mbaet yungh ‘bớt ăn bớt tiêu’.
17. (V) bớt [bɤt7]. Vết sạm hiện rõ trên da. Trên cánh tay có cái bớt. <> (Z) mbad [ba:t8] Idem. Ga hưnj mbad ‘chân lên nhọt’.
18. (V) buôn [buon1]. Mua để bán lại lấy lãi. Làm nghề buôn bán. <> (Z) buenq [pu:n5]. Idem. Guh cangh buenq ‘buôn bán nhỏ, buôn vặt’.
19. (V) bừa [bɯa2]. Nông cụ kéo lê, làm cho đất phẳng và sạch cỏ. Con trâu đi bừa. <> (Z) bw [phɯ1]. Idem.
20. (V) bươn [bƜɤn1]. Đi vội. Lang bạt khắp nơi. Bươn chải. Bươn bả. <> (Z) banh [pa:n6]. Đi lung tung, lang bạt.
21. (V) bương [bɯɤŋ1]. Loài tre ống to và thẳng. Ống đựng bằng lóng cây này. Xách bương đi tưới rau. <> (Z) mbaengq [baŋ5]. Idem. mbaengq cuk ‘ống bương đựng cháo’.
22. (V) bứt [bƜt7]. Dùng tay làm cho đứt lìa. Bứt cỏ, bứt hoa. <> (Z) mbaet [bat7] / mbit [bit7]. Hái, ngắt. Mbaet byaek ‘hái rau’.
23. (V) cá [ka5]. Động vật có xương ở dưới nước, thở bằng mang. Cá chậu chim lồng. <> ca [ɕa1]. Idem.
24. (V) cái [kai5]. To, lớn, hàng đầu. Chiêc trống cái. Ngón chân cái. <> (Z) gaij [ka:i3]. Idem.
25. (V) cái [kai5]. Tiếng trỏ đơn vị vật thể. Cái thì đỏ, cái thì vàng, cái nào cũng đẹp. <> gaiq [ka:i5]. Idem. Gaiq neix ‘cái này’.
26. (V) cám [kam5]. Chất bột do lớp vỏ lụa hạt gạo vỡ vụn ra khi giã. Cho lợn ăn cám. <> (Z) raemz [ɣam2]. Idem. Miz raemz ndei ciengx mou ‘có cám để nuôi lợn’.
27. (V) cạo [kau6]. Dùng dao làm đứt sạch lông hoặc lớp vỏ ngoài. Đầu cạo trọc lóc. Cạo khoai. <> gauq [ka:u5]. Idem. Gauq cienj ‘dao cạo’.
28. (V) cày [kăi2]. Nông cụ có cán gỗ và lưỡi sắt, cắm và đẩy đi để lật xới đất. Cày sâu cuốc bẫm. Con trâu đi trước, cái cày đi sau. <> (Z) cae [ɕai1]. Idem. Fag cae ‘cái cày’ . Haet cae moux geij naz ‘một buổi sáng cày được hơn mẫu ruộng’.
29. (V) cằm [kăm2]. Phần dưới cùng của khuôn mặt. Tay chống cằm. <> (Z) giemz [ki:m2]. Idem. Giemz zhangz ‘cái cằm’.
30. (V) cặp [kăp8]. Thành đôi. Một cặp vợ chồng. <> gaep [kap7]. Kết thành một đôi. Dox gaep guh gvan baz ‘kết với nhau thành cặp vợ chồng’.
31. (V) cầm [kɤ̆m2]. Nắm, giữ trong tay. Hai tay cầm bốn trái dưa. <> (Z) gaem [kam1]. Idem. Dawz vaiz aeu gaem boek ‘giữ trâu phải cầm lấy dây chão’.
32. (V) chà [ca2]. Cành cây nhiều nhánh nhỏ, dùng để rào hoặc thả dưới nước cho cá đến ở. Thả chà (trà). <> (Z) cah [ɕa6]. Nhành cây gai. Rào giậu. Gunz bya miz cah lai ‘trên núi có nhiều cây gai’. Cah suen byaek ‘rào vườn rau’.
33. (V) chạc [cak8]. Dây bện. Xỏ chạc vào mũi trâu. <> (Z) cag [ɕa:k8]. Idem. Cag gyang ‘dây bện bằng xơ cọ’.
34. (V) chạm [cam6]. Khắc trổ trên đồ vật. Chạm tủ chè. <> (Z) camx [ɕa:m4]. Idem. Camx sigbei ‘chạm / khắc bia đá’.
35. (V) chang [caŋ1]. Sáng trưng, sáng chói. Chói chang. Nắng chang chang. <> (Z) cangj [ɕaŋ3]. Idem. Ndong cangj ‘sáng choang’.
36. (V) chão [cau4]. Dây bện loại to, bền. Dai như chão. <> (Z) caeuz [ɕau2]. Dây xỏ mũi trâu. Dawz vaiz aeu gaem caeuz ‘giữ trâu phải nắm lấy chão’.
37. (V) cháo [cau5]. Món ăn nấu loãng từ gạo hoặc bột. Cơm ráo cháo nhừ. <> caux [ɕa:u4]. Cơm (?). Gin caux ‘ăn cơm’.
38. (V) chạy [căi6]. Di chuyển nhanh bằng đôi chân. Sấm đằng đông vừa trông vừa chạy. <> (Z) caij [ɕa:i3]. Idem.
39. (V) chăng [căŋ1] / giăng [zaŋ1]. Vây bủa. Con nhện giăng tơ. <> (Z) cang [ɕa:ŋ1]. Idem. Bae dah cang bya ‘đi sông bủa (giăng) cá’.
40. (V) chặp [căp6]. Một chốc lát. Trời mưa một chặp rồi tạnh ngay. <> (Z) yaep [jap7]. Idem. Gou yaep ndeu menh bae ‘Tôi đợi một chốc rồi đi’.
41. (V) chậm [cɤ̆m6]. Không nhanh, tốc độ thấp. Trâu chậm uống nước đục. <> (Z) yaem [jam1]. Idem. Mwngz yaem yaem byaij ‘Anh đi từ từ nhé’.
42. (V) chật [cɤ̆t8]. Nhỏ hẹp, không đủ chỗ chứa. Phố chật người đông. <> (Z) caenz [ɕan2]. Chật chội, hẹp hòi. Sim caenz ‘bụng dạ hẹp hòi’.
43. (V) chen [cƐn1]. Lấn , lách giữa đám đông. Người đi quấn áo chen chân. <> (Z) caenx [ɕan4]. Idem. Caenz haeuj bae yawj ‘chen vào xem’. Ngoenz hauw vunz caenz lai ‘Ngày chợ phiên người chen chúc nhau’.
44. (V) chếch [cec7]. Lệch, không chính giữa. Nhìn chếch sang bên trái. <> (Z) caek [ɕak7]. Idem. Aen daiz neix cuengq caek loh ‘chiếc bàn này lệch rồi’.
45. (V) chênh [ceɲ1]. Không ngang bằng, không bằng phẳng. Hai đứa chênh nhau vài tuổi. Bàn kê chênh. <> (Z) ceng [ɕe:ŋ1]. Idem. Ceng ndaej gyae ‘chênh nhau khá xa’.
46. (V) chóc [cɔkp7]. Trong chim chóc. Chim chóc đầy rừng. <> (Z) roeg [ɣok8]. Idem. Duz roeg douh gwnz faex’chim đỗ trên cây’ / cok [ɕo:k7]. Chim sẻ. Roeg cok youq lai yiemh guh rongz ‘chim sẻ làm tổ dưới mái hiên’.
47. (V) chọc [cɔkp8]. Đâm. Đẩy mạnh vào đối tượng bằng vật thẳng và cứng. Chọc quả bưởi trên cây. Chọc tiết lợn. (Z) coeg [ɕok8]. Idem. Deng oen coeg haeuj fwngz ‘bị gai đâm vào tay’.
48. (V) chớ [cɤ5]. Đừng, không nên. Ai ơi chớ bỏ ruộng hoang. <> (Z) caej [ɕai3]. Idem. Caej luenh yungh cienz ‘chớ nên tiêu tiền bừa bãi’.
49. (V) chú [cu5]. Em trai của cha. Nó lú có chú nó khôn. <> (Z) cuj [ɕu3]. Idem.
50. (V) chuối [cuoi5]. Loài cây nhiệt đới, thân cây là các bẹ lá ôm nhau, cho quả thành buồng. <> (Z) gyoij [kjo:i3]. Idem.
51. (V) cong [kɔŋm1]. Dáng uốn vòng, không thẳng, không gấp khúc. Cành cây cong. <> (Z) goeng [koŋ5]. Idem. Rap naek hanz ci goeng ‘gánh nặng đến nỗi đòn gánh cong cả xuống’.
52. (V) còng [kɔŋm2]. Lưng khom, lưng gù. Bà Còng đi chợ. <> (Z) gungx [kuŋ4]. Idem. Hwet gungx ‘lưng còng, lưng gù’.
53. (V) cóng [kɔŋm5]. Tê cứng vì rét. Rét quá, cóng cả tay. <> (Z) gongj [ko:ŋ3]. Idem. Fwngz gongj ‘cóng cả tay’.
54. (V) cổ [ko3]. Phần cơ thể nối giữa đầu và mình. Hươu cao cổ. Một cổ hai tròng. <> (Z) goz [ku1]. Idem.
55. (V) cúi [kui5]. Đầu và cổ gục xuống. Cúi chào. Cúi mặt làm thinh. (V) goz [ku1]. Idem.
56. (V) của [kua3]. Đồ vật và tiền bạc thuộc sở hữu của ai đó. Của ăn của để. <> goz [ku6]. Idem. Trong guh gaiq ‘của cải, đồ đạc’.
57. (V) cuốc [kuok7]. Dụng cụ đào xới đất. Vác cuốc ra vườn cuốc đất. <> (Z) guek [ku:k7] / gvak [kwa:k7]. Idem. Dawz guek bae guek namh ‘Mang cuốc đi cuốc đất’.
58. (V) cụt [kut8]. Thiếu hụt, mất đi đoạn cuối. Chó cụt đuôi. Chim cánh cụt. <> (Z) gud [kut8]. Idem. Ma rieng gud ‘chó đuôi cụt’.
59. (V) cứ [kɯ5]. Vẫn giữ ý định hay hành động như cũ. Đừng sợ, cứ nói. Nó vẫn chứng nào tật ấy. <> (Z) gwq [kɯ5]. Idem. De gwq riu ‘nó vẫn cứ cười’.
60. (V) cứng [kɯŋ5]. Rắn chắc. Chân cứng đá mềm. <> (Z) geng [ke:ŋ1]. Idem. Bya dai ndang geng ‘cá chết thì thân nó cứng’.
61. (V) dài [zai2]. Có trường độ tương đối lớn. Dài lưng tốn vải. <> (Z) raez [ɣai2]. Idem. Diuz cag neix caen raez ‘sợ dây thừng này dài’.
62. (V) dặm [zăm6]. Quảng đường, bước đường. Dặm về còn xa. <> (Z) yamq [ja:m5]. Bước chân, bước đi. Song yamq roen ‘hai bước chân’. Yamq din ‘dấn bước’.
63. n(V) dâm [zɤ̆m1]. Màu đen. Chỉn thấy cái hạc dâm bay liệng. <> (Z) ndaem [dam1]. Idem. Naij ndaem lumj dukrek ‘mặt đen như giẻ lót nồi’.
64. (V) dần [zɤ̆n2]. Đồ đan bằng nan tre, có lỗ nhỏ, dùng làm sạch gạo sau khi xay lúa. Nomg nia thúng mủng dần sàng. <> (Z) ranz [ɣan2]. Idem. Ndaw ranz rang mbouj lad ‘Trong nhà dần sàng đều chẳng có’.
65. (V) dâng [zɤ̆ŋ1]. Đưa lên cúng, tặng một cách cung kính. Làm lễ dâng hương. <> (Z) daengj [taŋ3]. Idem. Daengj cogoeng ‘dâng cúng tổ tiên’.
66. (V) dè [zɛ2]. Tự hạn chế, tằn tiện trong khi dùng. Ăm tiêu dè sẻn. <> (Z) ce [ɕe1]. Idem. Ciem ce ‘kiệm dè’.
67. (V) dẹp [zɛp8]. Thu gọn vào một chỗ hoặc bỏ đi. Dọn dẹp nhà cửa. <> (Z) caeb [ɕap8]. Idem. caeb conz doxgaiq ‘dọn dẹp đồ đac’.
68. (V) diều [zieu]. Diều hâu, loài chim to, thường bắt gà con ăn thịt. <> (Z) yiuh [ji:u6]. Idem.
69. (V) dỏ [zɔ3]. Trong dòm dỏ: dòm ngó vẻ dò xét. Dòm dỏ nhà người ta. <> (Z) yoj [jo3]. Dò xem. Gou bae yoj gaeuj ‘tôi đi ngó xem’.
70. (V) dòm [zɔm2]. Nhìn qua chỗ hở, vẻ dò xét. <> Bình dưa lọ muối chắt chiu nom dòm. <> (Z) ndomq [do:m5]. Idem.
71. (V) dọn [zɔn6]. Thu xếp, gom dồn lại. Thu dọn đồ đạc. Dọn dẹp nhà cửa. <> (Z) conz [ɕon2]. Idem. Ndaw ranz aeu caeb conz ‘Dọn đồ đạc trong nhà lại’. Dawz gij bwnh conz ndei Thu dọn chỗ phân bón kia lại’.
73. (V) dựng [zɯŋ6]. Đặt vật chiều thẳng đứng. Dựng cột nhà. <> (Z) daengj [taŋ3]. Dawz faex daengj hwnjdaeuj ‘Dựng khúc gỗ này lên’.
74. (V) đàng [daŋ2] / đường [dɯɤŋ2]. Lối đi lại. Đi một ngày đàng, học một sàng khôn. <> (Z) dangz [ th a:ŋ2]. Idem.
75. (V) đào [dau2]. Dùng dụng cụ moi đất lên. Đào củ mài. <> (Z) daeuq [tau5]. Idem. Daeuq duh namh ‘đào củ lạc’.
76. (V) đạp [dap8]. Giẫm chân lên. Chân đạp lên sỏi đá. <> (Z) dab [ta:p8]. Idem. Din dab hwnj daengq ‘chân đạp lên ghế’.
77. (V) đằn [dăn2]. Dùng sức hoặc vật nặng đè xuống. Khúc gỗ đằn lên chân. <> (Z) daenz [tan2]. Idem. Aeu rinbya daeuj daenz ‘Lấy đá đằn lên’.
78. (V) đâm [dɤ̆m1]. Va chạm mạnh, húc vào. Hai con trâu đâm nhau. <> (Z) daemj [tam3]. Idem. Vaiz dox daemj ‘trâu húc nhau’ / daem [tam1]. Va phải Haet dox daemj , haemh dox dengj ‘sáng va tối đụng’.
79. (V) đâm [dɤ̆m1]. Chích vào, thọc vào. Kim đâm vào tay. <> (Z) ndaemq [dam5]. Idem. Gaj mou ciuq hoz ndaemq ‘đâm thẳng vào cổ họng con lợn’.
80. (V) địu [diu6]. Dùng túi mang theo. Địu con lên rẫy. <> (Z) diuj [thi:u3]. Mang theo. Mungz diuj daeh ‘Tay mang túi vải’.
81. (V) đọi [dɔi6]. Chén, bát ăn cơm. Miếng khi đói bằng đọi khi no. <> (Z) duix [tu:i4]. Idem.
82. (V) đọt [dɔt8]. Ngọn, búp lá. Đọt chuối.<> (Z) dug [tuk8]. Idem. Song ~ byaek ‘hai đọt rau’.
83. (V) đồ [do2]. Vật dụng. Đồ đạc trong nhà. <> (Z) dox [to4]. Idem. Trong doxgaiq ‘đồ đạc’.
84. (V) đỗ [do4] / đậu [dɤ̆u6]. Dừng, nghỉ lại. Chim đỗ trên cành. <> (Z) duh [tu6] / douh [tou6]. Idem. Duzroeg duh gwnz faex ‘chim đỗ trên cành’.
85. (V) đồi [doi2]. Nơi đất đá nổi cao. Ngọn đồi trọc. <> (Z) ndoi [do:i1]. Idem. Soengq gvaq ndoi gvaq ndoeng, de song boux nanz liz ‘Tiễn nhau qua đồi lại qua rừng, hai người vẫn khó lòng chia tay’.
86. (V) đốn [don5] / đẵn [dan4]. Chặt cây, ngã gỗ. Đốn cây. Chém tren đẵn gỗ trên ngàn. <> (Z) donj [to:n3]. Chặt khúc. Go faex donj geij geh ‘một cây chặt thành mấy khúc’.
87. (V) đồng [doŋ2]. Vùng đất cày cấy, trồng trọt. Cày đồng đang buổi ban trưa. <> (Z) doengh [toŋ6]. Idem.
88. (V) đứt [dɯt7]. Lìa ra, rời ra. Nòng nọc đứt đuôi. <> (Z) daek [tak7]. Idem.
89. (V) éo [ɛu5]. Màu xanh sáng. Xanh éo. <> (Z) heu [he:u1]. Idem. Byaek heu ‘bắp cải xanh’.
90. (V) ếch [ec7]. Sinh vật cùng loài với nhái mà to hơn, ở ao hồ. Ếch ngồi đáy giếng. <> (Z) aek [ak7]. Idem.
91. (V) gà [ɣa2]. Loài gia cầm, con trống gáy về sáng. Con gà cục tác lá chanh.<> (Z) gaeq [kai5]. Idem. ~ boux ‘gà trống’.
92. (V) gác [ɣak7]. Trong gốc gác: nguồn gốc, lai lịch. Gốc gác nhà ta ở Hà Tĩnh. <> (Z) rag [ɣa:k8]. Phần rễ của cây. Rag faex ‘rễ cây’.
93. (V) gái [ɣai5]. Người thuộc giới nữ. Sinh được một gái một trai. <> (Z) gaij [kha:i3]. Idem.
94. (V) gạo [ɣau6]. Nhân hạt lúa, chứa tinh bột. Thóc cao gạo kém. <> (Z) gaeuj [khau3]. Idem. Gaeuj nu ‘gạo nếp’.
96. (V) gạo [ɣau6]. Cây cùng họ với cây gòn, cao to, hoa đỏ, quả có xơ bông. Đầu làng có cây gạo. <> (Z) reux [ɣe:u4]. Idem. Maex reux ‘cây gạo’. Va reux ‘hoa gạo’.
97. (V) gàu [ɣău2]. Chất cáu bẩn từ da đầu. Đầu có nhiều gàu. <> (Z) raeu [ɣau1]. Idem. Gwnz gyaeuj miz raeu ‘trên đầu có gàu’.
98. (V) gằm [ɣăm2]. Cúi mặt yên lặng. Xấu hổ, cúi gằm mặt xuống. <> (Z) gaemz [kam2]. Idem. gaemz gyaeuj ‘cúi đầu’.
99. (V) gắp [ɣăp7]. Dùng kẹp hay đũa cặp lấy vật gì. Gắp lửa bỏ tay người. <> (Z) gip [kip7]. Gắp, nhặt. Gip haex vaiz ‘gắp/nhặt phân trâu’.
100. (V) gặp [ɣăp8]. Cùng thấy mặt nhau tại một nơi. Người đâu gặp gỡ làm chi. <> (Z) roeb [ɣop8]. Idem. Roeb sou youq Namningz ‘gặp các ông ở Nam Ninh’.
101. (V) gắt [ɣăt7]. Nồng đậm quá mức, gây cảm giác khó chịu. Nước mắm mặn gắt. <> (Z) gaet [kat7] / get [ke:t7]. Idem. Gij laeuj neix gaet lai ‘rượu này gắt quá’.
102. (V) gật [ɣɤ̆t8]. Gục đầu ngẩng lên, tỏ ý tán đồng. Anh ấy gật một cái là xong ngay. Ông ta gật gù tán thưởng. <> (Z) ngaek [ŋak7]. Trong ngaek gyaeuj ‘gật gù’.
103. (V) gâu [ɣɤ̆u1]. Tiếng chó sủa. Chó sủa gâu gâu. <> (Z) raeuq [ɣau5]. Idem. Ma raeuq ‘chó gâu’.
104. (V) ghé [ɣɛ5]. Liếc mắt nhìn xéo. Ghé mắt trông lên thấy bảng treo. <> (Z) rez [ɣe2]. Idem. Lwgda rez gvaqbae ‘ghé mắt nhìn’.
105. (V) giàm [zam2]. Lồng chim. Nào ai đan giậm giật giàm bỗng dưng. <> (Z) camj [ɕa:m3]. Lồng gà bằng tre. Aeu camj daeuj camj gaeq ‘mang lồng tới nhốt gà’.
106. (V) giạm / dạm [zam6]. Ướm hỏi trước. Giạm vợ cho con . <> (Z) cam [ɕa:m1]. Xin hỏi. cam nuengx bae gizlawz ‘xin hỏi cô nàng đi đâu vậy’.
107. (V) giàn [zan2]. Mặt bằng được kê dựng lên cao. Giàn mướp. <> (Z) canz [ɕa:n2]. Dak haeux youq gwnz canz ‘trên giàn đang phơi thóc’.
108. (V) giày [zăi2]. Đồ dùng có đề mang kín bàn chân. Giày da Nam Định. <> (Z) yaiz [ja:i2]. Idem. yaiz baengz ‘giày vải’.
109. (V) giặm [zăm6]. Trồng tỉa xen vào chỗ trống. Giặm mạ vào ruộng. <> (Z) semz [θe:m2] / comj [ɕo:m3]. Idem. semz gyaj ‘giặm mạ’. Gumz lawz noix cix comj ‘mảnh đất còn trống kia cần phải cấy giặm mạ vào’.
110. (V) giắt [zăt7]. Nước đái tháo dây dưa từng tí một. Đái giắt. <> (Z) yaet [jat7]. Idem. Nyouh yaet ‘đái giắt’.
111. (V) giặt [zăt8]. Giũ quần áo với nước cho sạch. Nước trong, ta giặt yếm.<> (Z) saeg [θak8]. Idem. Bae haenz dah saeg buh ‘ra sông giặt áo’.
112. (V) giấm [zɤ̆m5] / rấm [ʐɤ̆m5]. Giữ, giấu kín, ủ kín. Giấm xoài cho chín. Giấm giúi trao cho nhau. <> (Z) yaem [jam1] / yaemh [jam6]. Ngầm, lén. Aeu lwgda dox yaem ‘đưa mắt ngầm mách bảo nhau’. Gou yaemh yaemh daengz henz mwngz ‘Tớ len lén đến sát bên cạnh’.
113. (V) giậm / dậm [zɤ̆m6]. Nện bàn chân xuống đất. Giậm chân kêu tời. <> (Z) caemq [ɕam5] / daemh [tam6]. Idem. Caemq din ‘giậm chân’. Lwg nyez fat heiq caemq caemq daenh daenh ‘thằng bé bực tức liên tục giậm chân’.
114. (V) giậm [zɤ̆m6]. Đồ đan bằng tre để bắt cá. Đánh giậm. Nào ai đan giậm giật giàm. <> (Z) yaemz [jam2]. Vó đánh cá. Aeu saeng bae yaemz bya ‘mang vó đi đánh bắt cá’.
115. (V) giấu [zɤ̆u5]. Cất giữ kín. Giấu kín mọi chuyện. <> (Z) caeu [ɕau1] / yaeuj [jau3]. Cất giữ. Yaeuj ceh fag guh faen ‘cất giữ những hạt thóc chắc mẩy để làm giống’.
116. (V) giun [zun1]. Loài trùng có đốt, sống chui dưới đất. Con giun xéo lắm cũng quằn. <> (Z) nduen [du:n1] / ndwen [dɯ:n1]. Idem. Dwk ndwen coq bit ‘Đào giun cho vịt ăn’.
117. (V) giương [zɯɤŋ1]. Mở rộng, căng ra, nâng cao. Giương buồm ra khơi. Giương đôi mắt ếch. <> (Z) caengz [ɕaŋ2]. Idem. Caengz da dwk yawj ‘Giương mắt nhìn’.
118. (V) gõ [ɣɔ4]. Đập nhẹ vào vật cứng, nghe thành từng tiếng. Tụng kinh gõ mõ. Nghe lạch cạch có tiếng gõ cửa. <> (Z) roq [ɣo2]. Idem. roq dou ‘gõ cửa’. roq gyong ‘gõ trống’.
119. (V) gom [ɣɔm1]. Dồn lại, tích góp lại. Thu gom tiền để mua trâu. <> (Z) rom [ɣo:m1]. Rom cienz caep ranz moq ‘gom tiền làm nhà mới’.
120. (V) gốc [ɣokp7]. Phần dưới cùng của thân cây. Vốn có ban đầu. ThằngCuội ngồi gốc cây đa. Trả nợ cả gốc lẫn lãi.<> (Z) goek [kok7]. Idem. Goek raemx ‘nguồn nước’. Saw goek ‘chữ cổ’. Miz goek cij miz lei ‘có gốc mới có lãi’.
121. (V) gối [ɣoi5]. Trong đầu gối. Mặt trước nơi ống chân khớp với đùi. Đói đầu gối phải bò. <> (Z) gaeuh [kau6]. Trong Duzgaeuh ‘đầu gối’.
122. (V) há [ha5]. Mở to miệng. Há miệng mắc quai. Há miệng chờ sung <> (Z) aj [a3]. Idem. Aj bak dwk hunghung ‘miệng há cực to’.
123. (V) han [han1]. Hỏi, hỏi han. Trước xe đon đả han chào. <> (Z) han [ha:n1]. Trả lời . De cam bae cam dauq cungj mbouj han ‘hỏi tới hỏi lui mãi mà nó cũng không trả lời’.
124. (V) háng [haŋ5]. Phần cuối của thân người, giữa hai đùi. Đứng giạng háng. <> (Z) hangx [ha:ŋ4]. Idem.
125. (V) hao [hau1]. Hao hao: vẻ giống nahu. Chị em nó hao hao giống nhau. <> (Z) haeuj [hau3]. Idem. Naj de haeuj daxboh ‘nó hao hao giống bố’.
126. (V) hằm [hăm2]. Hằm hằm; vẻ mặt tức giận. <> (Z) haemz [ham2]. Idem. Ho haemz ‘căm tức’.
127. V) hằn [hăn2]. Nổi vết. Vết tấy. Trán hằn nhiều vết nhăn. <> (Z) haenz [han2]. Idem.
128. (V) hếu [heu5]. Màu trắng bệch. Cái gáy trắng hếu. Hàm răng trắng hếu <> (Z) hau [ha:u1]. Màu trắng.
129. (V) hoẵng [hwaŋ4]. Thú rừng, giống nai, lông vàng. gvangh [kwa:ŋ6]. Idem.
130. (V) hong [hɔŋm1]. Hơ đồ vật bên lửa cho khô. Hong quần áo bên bếp lửa.<> (Z) hangq [ha:ŋ5]. Idem. Bya cuengq gwnz feiz hangq ‘hong cá trên lửa’.
131. (V) hong [hɔŋm6]. Khoang trống trong cổ, nơi tiếp giáp với miệng và thực quản. Nói rát cả cổ họng. <> (Z) hongh [ho:ŋ6]. Idem.
132. (V) hôm [hom1]. Buổi tối. Ăm bữa hôm, lo bữa mai. <> (Z) haemh [ham6]. Idem. Haemh gonq ‘đêm hôm trước’.
133. (V) kẽ [kɛ4]. Chỗ hở hẹp. Nhìn qua kẽ hở. Kẽ răng. <> (Z) geh [ke6]. Idem. Geh dou ‘khe cửa’.
134. (V) kén [kɛn4]. Chọn lựa. Kén cá chọn canh. <> (Z) genj [ke:n3]. Idem. Genj haeux ceh ‘chọn giống lúa’.
135. (V) kéo [kɛu5]. Đồ dùng để cắt, gồm hai thanh ghép với một trục quay. Dùng kéo cắt vải. <> (Z) geuz [ke:u2]. Idem.
136. (V) kéo [kɛu5]. Lôi đi. Cùng nối nhau đi theo hàng dài. Trâu kéo cày. Đàn kiến kéo nhau đi. <> (Z) geuj [ke:u5]. Idem. Hoenz geuj hwnj mbwn ‘khói cuốn lên trời’.
137. (V) kẹp [kɛp6]. Cắp, ép chặt vật vào giữa. Càng cua kẹp tay. <> (Z) geb [ke:p8]. Idem.
138. (V) kham [xam1]. Kham khổ: khổ cực, nghèo nàn. Ăn uống kham khổ. Đời sống kham khổ. <> (Z) gaemz [kham2]. Đắng. Mbei doek cauq lawz cauq lawz gaemz ‘mật rơi vào nồi nào thì nồi ấy đắng’ / goem [khom2]. Idem. Lwg goem ‘mướp đắng’ / gum [khum1]. Idem. / haemz [ham2]. Đắng . Gian nan. ~ baenz mbei ‘đắng như mật’ Gwn ~ gwn hoj ‘ngậm đắng nuốt cay’.
139. (V) khẳng [xăŋ3]. Khẳng khiu: gầy khô. Chân tay khẳng khiu. Cành cây khẳng khiu. <> (Z) gaengz [kaŋ2]. Gầy yếu.
140. (V) kiệt [kiet8]. Keo kiệt: hà tiện, bủn xỉn. Lão già keo kiệt. <> (Z) ged [ke:t8]. Idem. Mwngz ndaej ged baenzlai? ‘keo kiệt đến thế sao?’.
141. (V) là [la2]. Tiếng chỉ báo đối tượng được giải thích. Em là con gái nhà quê. <> (Z) laz [la2]. Idem.
142. (V) lăm [lăm1]. Cà lăm: nói lắp. Nó mắc tật nói cà lăm. <> (Z) laemh [lam6]. Idem. Vunzlaux gangj haengj laemh ‘ông lão nói cứ hay lặp đi lặp lại’.
143. (V) lăn [lăn1]. Quay tròn chuyển đi trên một bề mặt. Cho gỗ lăn xuống chân đồi. <> (Z) laen [lan2]. Xe cuộn lại. Aeu biz ma laen cag ‘Lấy cỏ râu rồng xe dây thừng’.
144. (V) lấn [lɤ̆n5]. Chen đẩy, vượt sang. Quân giặc xâm lấn bờ cõi. <> (Z) laenz [lan2]. Idem. laenz gvaq maz ‘lấn sang’.
145. (V) lọc [lɔkp8]. Lừa lọc: lừa dối, lường gạt. <> (Z) luk [luk7] / lok [lo:k7]. Idem. Mwngz gaej luk gou ‘mày chớ có lừa tao’.
146. (V) lòi [lɔi2]. Lợn lòi: lợn rừng. <> (Z) laih [la:i6]. Idem.
147. (V) lột [lot8]. Bóc, tách, trút bỏ lớp ngoài. Rắn lột xác. <> (Z) lot [lo:t7]. Bong da, trầy da.
148. (V) lợm [lɤm6]. Cảm giác buồn nôn. Lợm giọng buồn nôn. <> (Z) laemz [lam2]. Idem. Muz laemz: ‘buồn nôn’.
149. (V) lu [lu1]. Chum to đựng nước. <> (Z) luh [lu6]. Idem.
150. (V) luồn [luon2]. Chui qua lỗ hổng. Xe chỉ luồn kim. <> (Z) luen [lu:n1]. Idem. Duz ma luen congh ciengz ‘chó chui qua lỗ chân tường’.
151. (V) lưa [lɯa1]. Thừa ra, sót lại. Kẻ mất người lưa. <> (Z) lw [lɯ1]. Idem. Noh lw dwk baenz raeuh ‘còn lại khá nhiều thịt’.
152. (V) lưỡi [lɯɤi4]. Bộ phận mềm trong miệng, dể nếm thức ăn. Uốn ba tấc lưỡi. <> (Z) linx [lin4]. Idem.
153. (V) má [ma5]. Chó má:loài chó. <> (Z) ma [ma1]. Chó. Duz ma luen congh ciengz ‘Chó chui qua lỗ chân tường’.
154. (V) má [ma5]. Lúa má: trỏ lúa đang trồng. Ngoài đồng lúa má tốt tươi. <> (Z) max [ma4]. Lúa nương.
155. (V) mái [mai5]. Trỏ giống cái loài chim. Gà mái ấp trứng. <> (Z) maih [ma:i6]. Trỏ bộ phận sinh dục giống cái.
156. (V) mảnh [mɛɲ3]. Mẩu vỡ từ vật cứng. Mảnh chĩnh vứt ngoài bụi tre. <> (Z) meng [me:ŋ1]. Idem.
156. (V) mào [mau2]. Chốc mào: loài chim có chùm lông dựng cao trên đầu. <> (Z) mauh [ma:u6]. Roegmauh: ‘chốc mào’.
157. (V) mày [măi2]. Nhân xưng ngôi 2 số ít. <> (Z) mawz [maɯ2]. Idem.
158. (V) mận [mɤ̆n6]. Loài cây họ đào, hoa trắng, quả chua. Bây giờ Mận mới hỏi Đào. <> (Z) maenj [man3]. Idem. Mak maenj mbouj cug gwn cix soemj ‘Quả mận chưa chín ăn sẽ chua’.
159. (V) mất [mɤ̆t5]. Không còn, hết, chết. Tiền mất tật mang. <> (Z) maet [mat7]. Idem.
160. (V) mẹ [mɛ6]. Người đàn bà sinh ra con. Một lòng thờ mẹ kính cha. <> (Z) meh [me6]. Idem. Lwg gaej lumz meh ciengx ‘Làm con chớ quên ơn mẹ sinh thành’.
161. (V) mệt [met8]. Nhọc, mỏi, kiệt sức. Làm lụng không biết mệt. <> (Z) mieg [mi:k8]. Idem. Gij rengz gou mieg liux ‘Tôi đã mệt mỏi lắm rồi’.
162. (V) mịn [min6]. Bột nhỏ hạt, sờ thấy mướt tay. Khoai mịn. Mịn màng. <> (Z) mienz [mi:n2]. Idem. Gij mba haeux neix mienz lai ‘Chỗ bột gạo ấy thật là mịn’.
163. (V) mịt [mit8]. Nom không rõ, lu mờ. Mờ mịt, mịt mùng. <> (Z) myad [mja:t8]. Idem. Haemh neix ndaundeiq müo myad myad ‘Đêm nay sao trời mờ mịt’.
164. (V) móc [mɔkp7]. Sương nặng hạt. Mưa móc tưới nhuần. <> (Z) mok [mo:k7]. Idem. Haet neix mbwn laep mok ‘Hôm nay sương mù dày đặc’.
165. (V) mọt [mɔt8]. Loài trùng nhỏ đục gỗ. Con mọt sách. <> (Z) mod [mo:t8]. Idem. Mod dwk sim faex ‘Mọt đục sâu vào thân cây’.
166. (V) mối [moi5] / mai [mai1]. Sợi chỉ, dây nối. Nhện chờ mối ai. Ông mai bà mối. <> (Z) mae [mai1]. Idem. mae goenq caiq swnj ‘Sợi đứt thì nối lại’.
167. (V) mới [mɤi5]. Trái với cũ. Dọn sang nhà mới. <> (Z) mawq [maɯ5] / moq [mo5]. Idem. Guh ranz moq ‘Dựng nhà mới’.
168. (V) mừng [mɯŋ2]. Vui sướng đón nhận điều tốt lành. Tay bắt mặt mừng. Mừng anh chị tốt đôi <> (Z) maengx [maŋ4]. Idem. Lwgngez daenj buh moq gig maengx ‘Thằng bé được mặc áo mới mừng lắm’.
169. (V) mương [mɯɤŋ1]. Ngòi dẫn nước vào ruộng. <> (Z) mieng [mi:ŋ1]. Idem. Hai mieng bae coh naz ‘Khơi mương dẫn nước vào ruộng’.
170. (V) nài [nai2]. Van xin, năn nỉ. Vật nài van xin. <> (Z) naih [na:i6]. Idem.
171. (V) nào [nau2]. Tiếng tỏ ý thúc giục. Nào ta đi thôi nào. <> (Z) nauh [na:u6]. Idem.
172. (V) này [năi2]. Đây. Này là em ruột, này là em dâu <> (Z) neix [nei4]. Idem. Gij mak neix ndei gwn ‘Những quả này ăn ngon’.
173. (V) nẫu [nɤ̆u4]. Chín nục, chín ngấu, ruỗng nát. Trái chín nấu. Buồn nẫu ruột. <> (Z) naeuh [nau6]. Ruỗng nát. Vaiz dai gok mbouj maeuh ‘Trâu chết, sừng không ruỗng nát’.
174. (V) nén [nɛn5]. Đè xuống, giằn xuống, ép chặt. Nắm cơm nén chặt. Nén lòng chờ đợi. <> (Z) naenx [nan4]. Idem. Naenx gyaq ‘ép giá’ . Maenx heiq ‘giằn lòng’.
175. (V) nga [ŋa1]. Tục tằn, ngây ngô, ngớ ngẩn. Phàm gian óc chớ nga chơi. <> (Z) ngah [ŋa6]. Đần độn. Gaenz ngah ‘người ngây’.
176. (V) ngái [ŋai5]. Xa ngái: xa xôi. <> (Z) gyae [kjai1]. Xa. Byaij roen gyae ‘đi đường xa’.
177. (V) ngại [ŋai6]. E dè, không hào hứng. Đường xa chớ ngại Ngô, Lào. <> (Z) aix [a:i4]. Idem.
178. (V) ngang [ŋaŋ1]. Lưng chừng ở giữa. Mây bay ngang đèo. Ngang lưng thì thắt bao vàng. <> (Z) gyang [kja:ŋ1]. Idem. Gyang dah ‘ngang sông’. Gyang mbaek haeux ‘lưng ống gạo’.
179. (V) ngáy [ŋăi5]. Tiếng phát ra từ miệng và mũi trong khi ngủ. Đêm nằm thì ngáy kho kho. <> (Z) gyaen [kjan1]. De ninz gyaen foxfox ‘Nó ngủ ngáy pho pho’.
180. (V) ngắc [ŋak7]. Ngúc ngắc: lắc qua lắc lại, ngúng ngẩy. <> (Z) ngak [ŋa:k7]. Ngucngak : ngúc ngắc. Ndaek neix caen ngukngak ‘Cô ta cứ ngúng nguẩy hoài’.
181. (V) ngăm [ŋam1]. Màu da hơi đen. Nước da bắt nắng ngăm ngăm đen. <> (Z) gyaemx [kjam4]. Idem. Ndaem gyaemx ‘đen thui’.
182. (V) ngắn [ŋan5]. Trường độ ít, trái với dài. Bóc ngắn cắn dài. <> (Z) gaenq [kan5]. Idem.
183. (V) ngắt [ŋat7]. Cảm giác lạnh lẽo, vắng vẻ. Lạnh ngắt. Vắng ngắt. Ngàn dâu xanh ngắt một màu. <> (Z) gyaet [kjat7] / gaet [kat7]. Buốt lạnh. Gij raemx neix gyaet lai ‘Nước chỗ này lạnh lắm’. Raemx gaet ‘Nước lạnh ngắt’.
184. (V) ngậm [ŋɤ̆m6]. Khép miệng. Giữ thức gì trong miệng và khép môi lại. Ngậm như miệng hến. Ngậm bồ hòn làm ngọt. <> (Z) iemj [i:m3] / iem [i:m1]. Idem. Iemj sae ‘hến ngậm miệng’. Bak iem raemx ‘Miệng ngậm nước’.
185. (V) nghĩ [ŋi4]. Suy xét. Tưởng nhớ đến. Nghĩ người ăn gió nằm sương xót thầm. <> (Z) ngeix [ŋei4]. Idem. Ngeix boh meh aencingz ‘Nhớ tới công ơn bố mẹ’.
186. (V) nghiêng [ŋieŋ1]. Theo chiều xiêu xiên, ngả sang một bên. Vành nón che nghiêng. <> (Z) ngeng [ŋe:ŋ1]. Idem. Ninz ngeng ‘nằm nghiêng’ . Hwnq saeu mboj ndaej ngeng ‘Dựng cột đừng để nghiêng’.
187. (V) ngòm [ŋɔm2]. Màu đen đục ngầu. Đen ngòm. <> (Z) hoemz [hom2].Đục ngầu. Raemx hoemz ndei lumh bya ‘Nước đục dễ mò cá’.
188. (V) ngon [ŋɔn1]. Hợp khẩu vị, khoái khẩu. Ăn ngon mặc đẹp. <> (Z) ngonz [ŋo:n2]. Idem. Gin ngonz lai ‘Ăn ngon quá’.
189. (V) ngốc [ŋokp7]. Ngu si, đần độn. Khôn độc, ngốc đàn. <> (Z) huk [huk7]. Idem. Boux huk ‘thằng ngốc’.
190. (V) ngốn [ŋon5]. Nuốt lấy từng miếng to. <> (Z) gyan [kja:n1]. Idem. Gyan gwn ‘Ngốn lấy ngốn để’.
191. (V) ngụm [ŋum6]. Chỗ nước được hớp uống một lần. Cho xin ngụm nước. <> (Z) gaemz [kam2]. Idem. Gwn song gaemz raemx ‘Uống vài ngụm nước’.
192. (V) nhai [ɲai1]. Dùng răng nghiền thức ăn trong miệng. Tay làm hàm nhai. <> (Z) nyaij [ɳa:i3]. Idem.
193. (V) nhánh [ɲɛɲ5] / nhành [ɲƐɲ2]. Cành cây nhỏ. <> (Z) ngingh [ŋiŋ6] / nyingh [ɳeiŋ6]. Idem. Yaeb nyingh faex guh fwnz ‘Nhặt những nhành cây làm củi đun’.
194. (V) nhắm [ɲăm5]. Nhai nếm thức ăn. Nhắm rượu. <> (Z) nyaemq [ɳam5]. Idem. Nyaemq laeuj ‘nhắm rượu’.
195. (V) nhặng [ɲaŋ1]. Ruồi xanh. <> (Z) nyaen [ɳan1]. Idem.
196. (V) nhắp [ɲap7]. Nhắm mắt, chợp mắt. <> (Z) laep [lap7]. Idem. Laep da cix raen lwnz ‘Vừa chợp mắt đã thấy bóng em’.
197. (V) nhặt [ɲăt8]. Chật, dồn, mau gấp. Bắt khoan bắt nhặt. <> (Z) nyaed [ɳat8]. Idem. Vunz nyaed lai ‘người chật rồi’. Nyaed fwnx haeuj cauq ‘Đun đầy củi vào lò’.
198. (V) nhấm [ɲɤ̆m5]. Gặm từng tí và nhai kỹ. Giám nhấm quần áo. <> (Z) nyaemj [ɳam3] / yaemj [jam3]. Idem.
199. (V) nhíp [ɲip7]. Khâu chắp lại. <> (Z) nyib [ɳip8]. Idem. Nyib buh moq ‘khâu áo mới’.
200. (V) nhỏ [ɲɔ3]. Bé, trái với “to”. <> (Z) nyoj [ɳo3]. Thu bé lại.
201. (V) nói [nɔi5]. Phát ngôn thành lời, trò chuyện. Miệng nói tay làm <> (Z) naeuz [nau2]. Idem. Dingq coenz vah mwngz naeux ‘Nghe lời mày nói’.
202. (V) óc [ɔkp7]. Bộ não. Nghĩ nát óc. <> (Z) uk [uk7]. Idem. Uk gyaeuj ‘đầu óc’.
203. (V) ôm [om1]. Quàng tay giữ chặt vào lòng. Ôm rơm nhặm bụng. <> (Z) umj [um3]. Idem. Umj lwg ‘Ôm em bé’.
204. (V) phô [fo1]. Bày ra, khoe ra. Có vàng, vàng chẳng hay phô. <> (Z) boq [po5]. Khoe khoang. Gangj boq ‘nói phét’.
205. (V) phồng [foŋm2]. Phình to lên. Phập phồng. <> (Z) bongz [po:ŋ2]. Idem. Dungx bongz ‘Bụng căng phồng lên’.
206. (V) phừng [fɯŋ2] / bừng [bɯŋ2]. Rực sáng lên. Lửa chợt bốc lên. Lửa cháy phừng phừng. Bừng sáng. <> (Z) foengx [foŋ4]. Idem. Cawj byaek aeu feiz foengx ‘Luộc rau lửa phải bốc mạnh’.
207. (V) quạ [kwa6]. Loài chim lông đen. Diều tha, quạ mổ. <>(Z) ga [ga1]. Lamjbwn roeg ga duzduz ndaem ‘Khắp nơi quạ đều đen như nhau’.
208. (V) quảy [kwai3]. Gánh một bên, bên còn lại tì tay cho cân bằng. Quảy thúng đi mua thóc. <> (Z) gvaij [kwa:i3]. Idem.
209. (V) quanh [kwɛɲ1]. Bốn bề. Vòng quanh. <> (Z) gvaengx [kwaŋ4]. Idem. Seiq gvaeng ‘chung quanh’.
210. (V) quăng [kwaŋ1]. Vứt đi. Vung ra xa. Bủa lưới quăng chài. <> (Z) gveng [kwe:ŋ1]. Idem. Gveng roengz daemz bae ‘Vứt xuống ao cho rồi’.
211. (V) què [kwɛ2]. Chân bị tật, khó đi. Gà què ăn quẩn cối xay. <> (Z) gvez [kwe2]. Idem. Ga gvez ‘chân què’.
212. (V) quét [kwɛt7]. Dùng chổi làm sạch rác. Con sãi ở chùa thì quét lá đa. <> (Z) gvet [kwe:t7]. Idem. Gvet nyapnyaj ok bae ‘Quét cho sạch rác đi’.
213. (V) rám [ʐam5]. Nắng hoặc lửa thiêu cho đỏ hoặc đen đi. / sạm [şam6]. Đen sẫm lại. Da rám nắng mà sạm đen. <> (Z) ramj [ɣa:m3]. Đốt cháy. Gaej gwn ngaiz haue ramj ‘Đừng ăn cơm đã cháy đen’.
214. (V) ràng [ʐaŋ2]. Dùng dây quấn buộc xung quanh. Ràng buộc lấy nhau. <> (Z) rangh [ɣa:ŋ6] / riengh [ɣi:ŋ4]. Nối với nhau. Rangh cieg ‘nối dây thừng’. Lumj maesei dox riengh ‘Dường như dây tơ chắp nối’.
215. (V) rêu [ʐeu1]. Loài tảo mọc nơi ẩm ướt (chân tường, vách đá). Hòn đá xanh rì lún phún rêu. <> (Z) reuz [ɣeu1]. Idem. Byaek reuz cauj noh ‘Quơ rêu nướng thịt’.
216. (V) riu [ʐiu1]. Đồ đan để xúc bắt tép. Đi riu tép. Tép riu. <> (Z) yiuz [ji:u2]. Loài tôm nhỏ, tép.
217. (V) rò [ʐɔ2]. Nước rỉ ra ngoài. Nước rò ra từ chân đê. <> (Z) roh [ɣo6]. Idem. Fwn doek ranz cix roh ‘Vừa mưa mái nhà đã dột’.
218. (V) rõ [ʐɔ4]. Hiểu ra, nhận thấy được. Hai năm rõ mười. <> (Z) rox [ɣo4]. Idem. Mwngz rox mbouj rox ‘Mày đã rõ hay chưa rõ’.
219. (V) rộc [ʐokp8]. Ruộng ở khe núi. <>(Z) lueg [lu:k8]. Idem.
220. (V) rống [ʐoŋm5]. Tiếng kêu của động vật to. Tiếng chó sủa, tiếng trâu rống. <> (Z) rongx [ɣo:ŋ4]. Idem. Vaiz rongz ‘trâu rống’. Guk rongz ‘hổ gầm’.
221. (V) rộng [ʐoŋm6]. Có kích cỡ lớn, sức chứa nhiều. Hai ống quần rộng thùng thình. <> (Z) loengz [loŋ2]. Idem. Geu buh neix loengz lai ‘Bộ áo quần này rộng quá’.
222. (V) rốt [ʐot7]. Cuối chót. Một trai con thứ rốt lòng. <> (Z) yot [jo:t7]. Idem. Boh meh gyaez lwg yot ‘Bố mẹ cưng chiều con út’.
223. (V) rưới [ʐɯɤi5]. Rách rưới: quần áo cũ nát, tơi tả. Rách rưới như gã ăn mày. <> (Z) lwiz [lɯ:i2]. Cũ nát. Vaj lwix ‘mảnh vải cũ’.
224. (V) sao [şa:u1]. Tinh tú trên trời. Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ. <> (Z) ndau [da:u1]. Idem. Ndau gwnz mbwn ‘sao trên trời’.
225. (V) sàng [şaŋ2]. Đồ đan bằng nan tre, có lỗ (thưa hơn dần) để làm sạch gạo sau khi xay thóc. Công em xay giã dần sàng. <> (Z) raeng [ɣaŋ1]. Idem. Ndaw ranz raeng mbouj lad ‘Trong nhà dần sàng đều chẳng có’.
226. (V) sai [şai1]. Nhiều, dày đặc (quả). Vườn cam sai quả. <> (Z) seiq [θe:i5]. Nhiều, đông đúc. Aen mbanj neix vunz seiq ‘dân cư bản này thật đông đúc’.
227. (V) sém [şɛm5]. Bị bắt lửa cháy ở rìa hoặc bề mặt. <> (Z) remj [ɣe:m3]. Quá lửa cháy khô. Cawj byaek remj loh ‘Rau nấu bị cháy sém rồi’.
228. (V) sét [şɛt7]. Hiện tượng phóng điện giữa mây và mặt đất, gây tiếng nổ to. Giữa đường mụ bị sét đánh chết <> (Z) deg [te:k8]. Idem.
229. (V) soi [şɔi1] / rọi [ʐɔi6]. Chiếu sáng. Ánh trăng soi sáng muôn nơi. Ngọn đuốc rọi thẳng vào hang. <> (Z) coij [ɕo:i3]. Idem. Ndit coij ‘Ánh nắng chiếu rọi’.
230. (V) suối [şuoi5]. Khe nước trong rừng. Dòng suối nhỏ chảy ra sông. <> (Z) guij [khu:i3]. Idem.
231. (V) sượng [şɯɤŋ6]. Củ luộc rồi mà chưa thật chín, hoặc không mềm. Sắn này không bở, sượng lắm. <> (Z) swnx [θɯn4]. Idem. Aen sawz neix lij swnx ‘Khoai này sượng lắm’.
232. (V) tày [tăi2]. Kiểu chào ngày xưa, hai bàn tay úp lên nhau, hơi nâng cao và đưa về phía trước. Ngươi Trung Ngộ rảo đến trước tày rằng. <> (Z) sax [θa4]. Idem.
233. (V) tăm [tăm1]. Bọt khí trong nước. Sông dài cá lội biệt tăm. <> (Z) cimq [ɕim5]. Idem.
234. (V) tí [ti5]. Một chút. Đợi một tí. <> (Z) deij [tei3]. Idem. Mwng byaij heih deij ‘Mày mau mau lên một chút’.
235. (V) thét [thɛt7]. Kêu to, quát to. Gào thét vang trời. <> (Z) sek [θe:k7]. Idem. sek vaiz ‘Thét mắng con trâu’.
236. (V) to [tɔ1]. Có kích cỡ lớn. Lớn mật to gan. Tai to mặt lớn. <> (Z) daeu [tɑu1]. Idem.
237. (V) tơi [tɤi1]. Áo chằm bằng lá, mặc che mưa. Mang tơi đội nón ra đồng. <> (Z) se [θe1]. Idem.
238. (V) trai [tʂai1]. Người thuộc giới nam. Một trai con thứ rốt lòng. <> (Z) sai [θa:i1]. Idem. Boux sai ‘đàn ông’.
239. (V) trái [tʂai5]. Bên tả, ngược với bên phải. Nó thuận tay trái. <> (Z) soix [θo:i4] / swix [θɯ:i4]. Idem. Mungz soix ‘tay trái’. Fwngz swix ‘tay trái’.
240. (V) tro [tʂɔ1] / gio [zɔ1]. Tàn than còn lại sau khi cháy. Bôi tro trát trấu vào mặt. <> (Z) gyoq [kjo6]. Idem. Gyoq feiz ‘tro tàn’.
241. (V) tròn [tşɔn2]. Hình phẳng hoặc hình khối khép vòng, không có cạnh. Yêu nhau trái ấu cũng tròn. Đêm rằm trăng tròn. <> (Z) luenz [lu:n2]. Idem. Luenz lujluj ‘tròn vành vạnh’.
242. (V) trống [tşoŋm5]. Nhạc cụ làm bằng gỗ (tang trống), hai đầu bịt da (mặt trống). Tùng tùng trống đánh ngũ liên. <> (Z) gyong [kjo:ŋ1]. Idem. Aen laz baengh aen gyong ‘Tiếng cồng phải hòa với tiếng trống’.
243. (V) trơn [tşɤn1]. Bề mặt có độ ma sát thấp, dễ trượt. Trời mưa đường đất trơn như mỡ. <> (Z) conj [ɕo:n3]. Trượt. Conj roengz ‘trượt xuống’ / lwenq [lɯ:n5]. Trơn bóng. Gwnz rin gig lwenq ‘Mặt đá thật trơn’.
244. (V) trùm [tşum2]. Bao phủ lên trên. Bóng cây trùm mái nhà. <> (Z) gyuem [kju:m1] / rumj [ɣum3]. Idem. Haemh ninz yaek gyuem denz ‘Đêm ngủ phải đắp chăn’.
245. (V) ức [ɯk7]. Phần ngực của loài chim, thú. Con gà chân cao, ức nở. <> (Z) aek [ak7]. Ngực. De enj aek dwk byaij ‘Nó ưỡn ngực mà đi’.
246. (V) ưỡn [ɯɤn4]. Vươn ngực lên phía trước. <> (Z) enj [e:n3]. Idem. De enj aek dwk byaij ‘Nó ưỡn ngực mà đi’.
247. (V) ửng [ɯŋ3]. Hơi đỏ lên. Đôi má ửng hồng / hửng [hɯŋ3]. Hơi sáng lên. Trời hửng nắng <> (Z) wenj [ɯ:n3]. Trời quang tạnh. Trời rực sáng. Mbwn wemj ‘trời tạnh’. Daeng ngoenz wenj vangjvangj ‘Trời nắng rực rỡ’.
248. (V) vác [vak7]. Đặt đồ lên vai mang đi. Nhà nông vác cuốc ra đồng. <> (Z) mbeg [be:k8]. Idem.
249. (V) vai [vai1]. Phần cơ thể giữa cổ và cánh tay. Lưng dài vai rộng. Áo vắt vai, quần hai ống ướt. <> (Z) mbaq [ba5]. Idem. Rap dwk mbaq hwnj daw ‘Gánh nhiều vai chai cả đi’.
250. (V) vải [vai3]. Vật liệu để may áo quần, dệt từ sợi bông. Mà nay áo vải cờ đào <> (Z) baix [pha:i4]. Idem.
251. (V) vẩy [vɤ̆i3]. Vung vẩy: bàn tay cử độmg liên tục . Chó vẩy đuôi mừng. <> (Z) vae [wai1]. Idem.
252. (V) vẹo [vɛu6]. Nghiêng lệch sang một bên. Dáng đi xiêu vẹo. <> (Z) mbeuj [be:u3]. Lệch, không ngay ngắn. Naengh mbeuj loh ‘Ngồi lệch rồi’. Faex mbeuj gawq mbouj baen benj ‘Gỗ cong vẹo không xẻ thành ván được’.
253. (V) vịt [vit8]. Loài gia cầm bơi trên nước. Khách đến nhà, không gà thì vịt. <> (Z) bit [pit7] / baet [pat7]. Idem.
254. (V) vứt [vɯt7]. Ném đi, quăng đi. Vứt tiền qua cửa sổ. <> (Z) vut [wut7]. Idem.
255. (V) xiên [sien1]. Nghiêng chéo một bên. Ánh nắng chiếu xiên xuống sân. <> (Z) cienx [ɕi:n4]. Idem. De byaij ngauz cienx cienx ‘Nó đi dáng xiêu vẹo’.
256. (V) xổ [so3] / sổ [ʂo3]. Thoát ra, buông ra, tháo ra. Con sáo sổ lồng. <> (Z) coq [ɕo5]. Buông, thả, tháo. Coq haeux roengz rek ‘Bỏ gạo vào nồi’. Haemh neix gou bae coq raemx ‘Tối nay tôi đi tháo nước vào ruộng’.
257. (V) xống [soŋm5]. Quần, váy. Áo xống. <> (Z) congz [ɕo:ŋ2]. Bộ (áo quần). Daenj congz buh ndeu ‘Mặc bộ quần áo’.
3. Nhận xét chung
(1) Phần lớn các ngữ tố Việt và Choang kê ra trên đây có sự tương ứng một đối một, nhưng cũng có một số trường hợp, với một hình thức bên ngôn ngữ này có thể tìm thấy vài ba hình thức tương ứng bên ngôn ngữ kia. Những hình thức song tồn này có thể là những ngữ tố cùng gốc với ít nhiều biến đổi về mặt ngữ nghĩa, song cũng có thể chỉ đơn giản là các biến thể phát âm mà thôi.
(2) Hầu hết các ngữ tố Việt và Choang được xem xét ở đây đều là đơn tiết, có thể sử dụng độc lập trong câu. Tuy nhiên cũng có những trường hợp trong khi ở ngôn ngữ này ngữ tố đang xét là từ đơn tiết, thì trong ngôn ngữ kia tương ứng với nó là một ngữ tố không độc lập (thường là trong từ láy âm).
(3) Tình hình đối ứng ngữ âm giữa các ngữ tố chung Việt và Choang là rất đa dạng và phức tạp, có thể phản ảnh những tình trạng lịch sử khác nhau của các hiện tượng. Tạm thời không xét đến sự đối ứng về thanh điệu và vần, ở đây chỉ xin so sánh sơ qua về quan hệ giữa các âm đầu ở hai ngôn ngữ. Qua các dẫn liệu kể trên ta có thể nêu ra một vài nhận xét như sau:
a. Gần như có sự tương ứng “một đối một” từ các âm đầu l [l-], m [m-] và n [n-] của tiếng Việt so với tiếng Choang. Nhưng đối chiếu từ phía tiếng Choang sang tiếng Việt, thì có chút ít xê xích: Có 3 ngữ tố Choang mang âm đầu l [l-] lần lượt tương ứng với nh [ɲ-], r [ʐ-], tr [tʂ-] trong tiếng Việt.
b. Một số âm đầu của tiếng Việt tìm thấy sự tương ứng chủ yếu với một vài âm đầu trong tiếng Choang. Chẳng hạn như sau:
(V) b [b-] <> (Z) chủ yếu với b [p-], mb [b-], cá biệt với f [f-].
(V) c/k/q [k-] <> (Z) chủ yếu với g [k-], cá biệt với c [ɕ-], r [ɣ-].
(V) ch [c-] <> (Z) chủ yếu với c [ɕ-], cá biệt với y [j-], r [ɣ-], gy [kj-].
(V) đ [d-] <> (Z) chủ yếu với d [t-], cá biệt với nd [d-].
(V) g [ɣ-] <> (Z) chủ yếu với g [k-], r [ɣ-], cá biệt với g- [kh-] ng [ŋ-].
(V) h [h-] <> (Z) chủ yếu với h [h-], cá biệt với g [k-], zero [∅-].
(V) zero [∅-] <> (Z) chủ yếu với zero [∅-], cá biệt với h [h-].
(Trong phần dẫn liệu kê ra ở trên, các âm đầu zero [∅-] đều bị lược bỏ cho giản tiện).
Các âm đầu khác của tiếng Việt có quan hệ đối ứng khá phân tán với các âm đầu tiếng Choang, xin tạm không kể ra ở đây.
Những gì trình bày trên đây, từ dẫn liệu đến nhận xét chung, hẳn là chưa thật sự đầy đủ. Có thể vẫn cần được bổ chính trên nhiều tư liệu mới nữa.
Tài liệu tham khảo
1. de Rhodes, Alexandre. Từ điển Annam-Lusitan-Latin. Roma, 1651. Bản dịch tiếng Việt của Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, và Đỗ Quang Chính. Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Khoa học Xã hội, 1991.
2. 古壯字字典 (Sawndip Sawdenj), sơ cảo. Quảng Tây: Quảng Tây Dân tộc Xuất bản Xã, 1989.
3. Hoàng Phê, chủ biên. Tự điển tiếng Việt. 7th ed. Hà Nội – Đà Nẵng: Nxb Đà Nẵng – Trung tâm Từ điển học, 2000.
4. Huình Tịnh Của. Đại Nam quấc âm tự vị (Dictionarie Annamite). Saigon, 1895 (tập I); 1896 (tập II).
5. Nguyễn Quang Hồng, chủ biên. Tự điển chữ Nôm (Sơ thảo). Hà Nội: Nghiên cứu Hán Nôm, 1995.
6. Nguyễn Quang Hồng. “Hiện tượng đồng hình giữa chữ Nôm Việt và chữ vuông Choang.” Tạp chí Hán Nôm, no. 2 (1997).
7. Nguyễn Tài Cẩn. Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt (Sơ thảo). Hà Nội: Nxb Giáo dục, 1995.
8. 张公谨 等著. 民族古文献概览. 北京: 民族出版社, 1997.
9. 张元生 等编. 古壯字文献迭註. 天津: 天津古籍出版社, 1992.
10. 徐松石. 傣族 撞族 越族 考. In 民族学研究著作五种 (上). 广东: 广东人民出版社, 1993.
11. 王力. 同源字典. 北京: 商務印書舘, 1982.
Chú thích: Bài viết này của GS. TSKH. Nguyễn Quang Hồng là Báo cáo trình bày tại Hội thảo Ngôn ngữ học Đông Nam Á lần thứ 5, Tp Hồ Chí Minh, 2000. Đăng tạp chí Ngôn ngữ, 2001, N.13.Chúng tôi đã được sự đồng ý của tác giản để đăng lại bài viết này trên webiste của Digitizing Việt Nam
Tối ngày 19 tháng 7 năm 2025 Đại học Columbia đã tổ chức sự kiện Vietnam on Screen: Đối thoại giữa các thế hệ – một đêm đặc biệt nhằm tôn vinh những tiếng nói đang định hình diện mạo mới của điện ảnh Việt Nam đương đại. Sự kiện do Viện Đông Á thuộc Đại học Columbia (WEAI) phối hợp cùng Liên hoan Phim châu Á New York (NYAFF) đồng tổ chức, quy tụ các nhà làm phim, nghệ sĩ và khán giả trong một không gian giao lưu, đối thoại và trải nghiệm điện ảnh.
Chương trình mở đầu với phát biểu của Đại sứ Đỗ Hùng Việt, Trưởng Phái đoàn Thường trực Việt Nam tại Liên Hợp Quốc. Sự hiện diện của ông mang đến thông điệp gắn kết văn hóa và nghệ thuật xuyên biên giới. Ngay sau đó là phần tọa đàm do đạo diễn Tony Bui – tác giả bộ phim từng đoạt nhiều giải thưởng Three Seasons, hiện là Nghệ sĩ cư trú tại WEAI và giám tuyển loạt phim Legacies of War thuộc Criterion Collection – điều phối.
Buổi tọa đàm có sự tham gia của ba nghệ sĩ đại diện cho ba thế hệ làm phim Việt và gốc Việt:
Ba diễn giả đã chia sẻ hành trình sáng tạo, sự chuyển mình của điện ảnh Việt qua các thế hệ, cũng như vai trò của nghệ thuật kể chuyện trong việc kết nối con người và mở rộng đối thoại toàn cầu.
Sau phần trò chuyện, khách mời cùng tham dự tiệc tiếp tân trong không khí ấm cúng, thân mật và cởi mở.
Khép lại đêm sự kiện là buổi công chiếu phim Skin of Youth (Ồn Ào Tuổi Trẻ) – tác phẩm mới nhất của đạo diễn Ash Mayfair, người từng gây tiếng vang với The Third Wife. Bối cảnh phim đặt trong một Sài Gòn mộng mị của thập niên 1990, xoay quanh San – một nghệ sĩ chuyển giới đầy nội lực và Nam – người tình của cô, một võ sĩ đấu ngầm. Trong hành trình tìm kiếm tự do và hoàn thiện bản thân, họ bị cuốn vào thế giới ngầm khắc nghiệt, nơi tình yêu và bản sắc bị thử thách đến tận cùng. Với hình ảnh giàu chất thơ và góc nhìn nhân văn táo bạo, Skin of Youth là lời khẳng định mạnh mẽ về tình yêu, sự dũng cảm và khát vọng sống thật với chính mình.
Sự kiện Vietnam on Screen không chỉ là lời tôn vinh những tài năng điện ảnh Việt, mà còn là minh chứng cho sức mạnh kết nối giữa các thế hệ, không gian và nền văn hóa qua nghệ thuật. Điện ảnh Việt Nam – với sức sáng tạo, đa dạng và chiều sâu nhân bản – đang ngày càng khẳng định vị thế trên bản đồ điện ảnh thế giới.
Một trong những trung tâm nghiên cứu hàng đầu tại Hoa Kỳ về Đông Á, WEAI tổ chức nhiều chương trình giao lưu, học thuật và nghệ thuật nhằm thúc đẩy đối thoại xuyên văn hóa và liên ngành.
Được thành lập từ năm 2002, NYAFF là một trong những sân khấu quan trọng nhất tại Bắc Mỹ dành cho điện ảnh Châu Á, nổi tiếng với việc giới thiệu những tiếng nói táo bạo, độc lập và mới mẻ đến khán giả quốc tế.
Tại những vùng biên giới miền núi nơi Việt Nam, Lào và khu vực tây nam Trung Quốc giao nhau, việc lần theo dấu vết quá khứ chưa bao giờ là một hành trình đơn giản. Ở đây, ký ức được lưu giữ ngay trong những nhạy cảm chính trị, những im lặng văn hóa, cũng như tro tàn của các cuộc cách mạng. Trong nhiều cộng đồng địa phương, việc kể lại lịch sử thậm chí có thể bị tránh né hoàn toàn — do buộc phải thận trọng, do tổn thương, hoặc như một hình thức phản kháng — trong khi những diễn ngôn chính thống và xu hướng “di sản hóa” lại góp phần định hình, thậm chí làm mờ nhạt cách mà quá khứ được thể hiện.
Chasing Traces: History and Ethnography in the Uplands of Socialist Asia (tạm dịch: Truy vết: Nghiên cứu Lịch sử và Dân tộc học ở Khu vực Vùng Cao thuộc Chế độ Xã hội Chủ nghĩa tại Châu Á) là tập sách đầu tiên đối diện trực tiếp với những căng thẳng đó, đóng góp vào lĩnh vực nghiên cứu ký ức, lịch sử, và dân tộc học trong một khu vực phức tạp. Dựa trên trải nghiệm và suy ngẫm của một nhóm mười hai học giả với nhiều thập kỷ gắn bó với vùng cao Việt Nam, Lào và Trung Quốc, cuốn sách đặt ra những câu hỏi cấp thiết: Làm thế nào để các nhà nghiên cứu tiếp cận tri thức địa phương về quá khứ trong những bối cảnh nhạy cảm chính trị? Lịch sử được thể hiện ra sao qua nghi lễ, lời nói, và cả sự im lặng? Những thách thức về phương pháp và đạo đức nào phát sinh khi làm việc với lịch sử truyền miệng, những tư liệu lưu trữ mong manh, và những ký ức bị tranh cãi?
Những chương sách trong Chasing Traces không nhằm trình bày một dòng lịch sử liền mạch. Thay vào đó, chúng ghi lại quá trình nghiên cứu đầy mâu thuẫn, phức tạp và không chắc chắn tại những nơi mà lịch sử được sống và được ghi nhớ theo những cách không tuân theo khung khái niệm quốc gia hay học thuật phương Tây. Với sự nhấn mạnh vào bối cảnh cụ thể, các tác giả suy ngẫm về những khoảng trống im lặng của tư liệu lưu trữ, về cách kể chuyện địa phương, sự hợp tác với cộng đồng, và tác động của sự giám sát cũng như các diễn ngôn nhà nước đối với công việc thực địa.
Điểm nổi bật của cuốn sách là lời kêu gọi về một cách tiếp cận phản tư có tính phê phán đối với dân tộc học lịch sử — một cách tiếp cận đề cao những gì ẩn sau sự trình diễn, những mảnh ghép rời rạc, những lời thì thầm. Cuốn sách dành cho những học giả đang tìm đường đi giữa ranh giới mờ nhạt phân cách nhân học và sử học, đồng thời cung cấp những hướng dẫn cả về lý thuyết lẫn thực hành cho việc nghiên cứu trong bối cảnh bị giới hạn bởi bất ổn chính trị, bạo lực hay các gián đoạn toàn cầu như đại dịch COVID-19.
Bằng cách đặt trọng tâm vào trải nghiệm của cả người nghiên cứu và cộng đồng địa phương, Chasing Traces thách thức những giả định phổ biến về cái gì được coi là lịch sử và làm thế nào để viết ra nó. Đây là một tác phẩm không thể bỏ qua đối với bất kỳ ai quan tâm đến Đông Nam Á, nghiên cứu về các nhóm thiểu số, lịch sử truyền khẩu, và đạo đức trong sản xuất tri thức ở các bối cảnh hậu cách mạng và hậu thuộc địa.
Nhờ sự hỗ trợ của Nhà xuất bản Đại học Hawai‘i, Chasing Traces hiện đã được phát hành dưới hình thức truy cập mở. Bạn đọc có thể xem toàn bộ cuốn sách miễn phí tại: https://manifold.uhpress.hawaii.edu/projects/chasing-traces
Trung Quốc và Việt Nam "núi liền núi sông liền sông", trong quá trình lịch sử lâu dài, do các nguyên nhân chính trị, kinh tế và những lý do khác, người Hoa đã di cư đến Việt Nam và định cư ở đây lâu dài. Người Hoa, dù trong quá khứ hay hiện tại, đều đã có những đóng góp cho văn hóa, kinh tế và nhiều lĩnh vực khác của Việt Nam. Sau khi di cư đến Việt Nam, những tiến bộ về khoa học kỹ thuật và truyền thống văn hóa mà họ mang theo đã tạo nên ảnh hưởng sâu rộng đối với xã hội Việt Nam. Lấy giai đoạn cuối thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX ở Việt Nam làm bối cảnh nghiên cứu, bài viết này khám phá những đóng góp của người Hoa tại Việt Nam trong lĩnh vực kinh tế trong thời kỳ này, với hy vọng sẽ giúp người hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của dân tộc Hoa đối với xã hội Việt Nam.
Dựa trên tiêu chuẩn thức biệt dân tộc của Việt Nam, cộng đồng dân tộc Hoa tại Việt Nam, ngoài số lượng đáng kể người Hán và người Ái, còn bao gồm những nhóm người có tổ tiên thuộc 21 tộc người và tộc người khác có nguồn gốc từ Trung Quốc, bao gồm: Thái, Nùng, Bố Y, Rơ Măm, Sán Chay, Lạch, H'Mông (Miêu), Dao, Pà Thẻn, La Chí, Pu Péo, Hà Nhì, La Hủ, Lô Lô, Phù Lá, Gié Triêng, Mảng, Cống, Xơ Đăng, Cơ Ho, Sán Dìu. Những dân tộc và tộc người này có quan hệ mật thiết với các nhóm dân tộc Miao-Yao (Miêu Dao) và Zhuang-Dong (Choang Động) Trung Quốc. Rất nhiều trong số họ là người di cư từ Trung Quốc sang Việt Nam sau khi Việt Nam thành lập nhà nước.
Người Hoa di cư vào Việt Nam từ hai con đường chính: di cư tự nhiên và di cư cưỡng ép. Di cư tự nhiên chủ yếu do các lý do tìm kiếm sinh kế, buôn bán, binh sĩ chưa trở về sau chiến tranh, hoặc đi hành hương. Di cư cưỡng ép chủ yếu là để tránh các biến động chính trị trong nước, bị các thế lực nước ngoài hoặc phe phái ly khai bắt ép sang Việt Nam, hoặc cũng khi do nạn buôn người. Các tuyến đường di cư chủ yếu gồm tuyến đường bộ và tuyến đường biển.
Tuyến đường bộ gồm các tuyến sau: thứ nhất là từ Thái Lan theo dòng sông Mê Kông vào vùng Tây Bắc Việt Nam; thứ hai là từ vùng Xishuangbanna thuộc tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) di cư sang Việt Nam, trong đó lại chia làm hai nhánh: một nhánh đi theo sông Hồng đến Lào Cai, Yên Bái, rồi tiếp tục vào vùng trung nguyên phía Bắc Việt Nam, sau đó chuyển hướng về khu vực Nghĩa Lộ, Mù Cang Chải; nhánh còn lại di chuyển theo dòng sông Đà, rồi đến các khu vực Phong Thổ, Quỳnh Nhai để định cư. Ngoài ra, còn có một số người vượt qua biên giới bộ giữa Trung Quốc và Việt Nam trực tiếp vào Việt Nam.
Người Quảng Đông, Phúc Kiến chủ yếu di cư sang Việt Nam theo đường biển, họ vượt qua eo biển Quỳnh Châu, rồi đi qua vịnh Bắc Bộ vào Việt Nam. Những người di cư Trung Quốc này, cùng với quá trình phát triển xã hội của Việt Nam, từ vùng Bắc Bộ liên tục di chuyển vào các khu vực Trung Bộ và Nam Bộ. Bên cạnh đó, cũng có một số lượng không nhỏ người di cư Trung Quốc vượt qua vịnh Bắc Bộ trực tiếp di cư vào vùng Trung Bộ và Nam Bộ của Việt Nam.
Những người Hoa di cư vào Việt Nam vẫn duy trì mối liên hệ sâu sắc với Trung Quốc. Từ xưa đến nay, Việt Nam có quan hệ mật thiết với Trung Quốc và chịu ảnh hưởng sâu đậm của văn hóa Nho giáo Trung Hoa. Vì vậy, về mặt văn hóa, sau khi di cư sang Việt Nam, những người Hoa này vẫn mang trong mình sự đồng cảm sâu sắc với Trung Quốc và văn hóa Nho giáo. Về mặt kinh tế, nhờ vào sự nỗ lực không ngừng tại Việt Nam, người Hoa đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể và sở hữu một tiềm lực kinh tế nhất định.
Trước và sau Chiến tranh Nha Phiến (1839), ngành nghề của người Hoa tại Việt Nam trở nên rất đa dạng, gần như trong tất cả các lĩnh vực kinh tế đều có sự hiện diện của họ. Phần lớn người Hoa hoạt động trong lĩnh vực công thương nghiệp. Trong các ngành như xay xát gạo, chế biến đường, kéo bông, dệt vải, đóng tàu, nấu rượu, ép dầu, sản xuất thuốc lá, thực phẩm, gốm sứ, dược liệu, khai khoáng, hóa chất, gia vị, trà, thiết bị điện, cơ khí, cá khô, luyện thép v.v., người Hoa thường là chủ các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoặc tiểu thương.
Có thể thấy rằng, tại các khu vực tập trung người Hoa, công thương nghiệp phát triển khá mạnh. Vào đầu thế kỷ XX, khu vực Chợ Lớn (khi đó có 94.000 dân, trong đó người Hoa chiếm 49.000 người – hơn một nửa dân số) đã trở thành trung tâm thương mại lớn nhất Việt Nam thời bấy giờ. Ngoài ra, nhiều người Hoa tại Việt Nam từ nhân viên, công nhân, nông dân, ngư dân đã vươn lên trở thành những nhà tư bản có tiềm lực kinh tế đáng kể.
Đến đầu thế kỷ XX, tổng số người Hoa tại Việt Nam đã đạt đến quy mô lớn, với hơn một triệu người, đứng thứ sáu trong các thành phần dân tộc tại Việt Nam. Người Hoa phân bố rộng khắp trên cả nước, từ miền núi đến đồng bằng, từ thành thị đến nông thôn. Trong hơn một triệu người Hoa, về quê quán thì khoảng 80% là người gốc Quảng Đông, còn lại khoảng 20% đến từ các tỉnh Phúc Kiến, Vân Nam và Quảng Tây. Phần lớn người Hoa sống tại TP. Hồ Chí Minh, với 524.499 người. Ngoài ra, các tỉnh phía Nam có đông người Hoa bao gồm: Hậu Giang (102.571 người), Đồng Nai (84.570), Minh Hải (40.144), Tiểu Hà (32.512), Cửu Long (20.898), Kiên Giang (20.638), An Giang (18.617). Tại miền Bắc có khoảng 300.000 người Hoa, trong đó tỉnh Quảng Ninh có khoảng 180.000 người, TP. Hải Phòng hơn 50.000 người và Hà Nội có 4.015 người.
Trong hơn 200 năm từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, đã có hai đợt di cư quy mô lớn của người Hoa sang Việt Nam. Một là vào cuối đời Minh – đầu đời Thanh, và lần thứ hai là sau thời kỳ Thái Bình Thiên Quốc. Số lượng người Hoa di cư sang Việt Nam ngày càng tăng, với trí tuệ và sự nỗ lực của mình họ đã góp phần to lớn vào công cuộc phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam. Trong đó, giai đoạn từ cuối thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX là thời kỳ nổi bật nhất trong lịch sử.
2. Phân tích bối cảnh người Hoa di cư sang Việt Nam từ cuối thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX
Từ cuối thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX, Trung Quốc và Việt Nam đều trải qua những biến động triều đại, song cả hai quốc gia vẫn duy trì hình thái xã hội nông nghiệp và tạo nên những thành tựu rực rỡ trong nền văn minh nông nghiệp của mình.
Về phía Trung Quốc, sau sự chuyển giao giữa nhà Minh và nhà Thanh, triều Thanh dần củng cố quyền thống trị trên toàn quốc, tiêu biểu là việc bình định cuộc nổi loạn Tam Phiên vào cuối thế kỷ VVII và thu hồi Đài Loan. Sang giữa thế kỷ XIX, các quốc gia phương Tây bắt đầu xâm nhập vào Trung Quốc, khiến đất nước này dần trở thành một xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Mâu thuẫn giai cấp trong nước ngày càng gay gắt, các cuộc khởi nghĩa nông dân bùng phát liên miên.
Về phía Việt Nam, vào cuối thế kỷ XVII, tuy trên danh nghĩa là do triều Hậu Lê (1428–1788) cai trị, nhưng trên thực tế đất nước bị phân chia thành hai thế lực phong kiến: họ Trịnh ở phía Bắc (Đàng Ngoài) và họ Nguyễn ở phía Nam (Đàng Trong). Miền Bắc lấy Thăng Long làm trung tâm, dưới quyền kiểm soát của chúa Trịnh; miền Nam lấy Thuận Hóa làm trung tâm, do chúa Nguyễn cai trị. Cả hai thế lực này đều xưng thần với triều Hậu Lê.
Năm 1771, khởi nghĩa Tây Sơn nổ ra. Cuộc khởi nghĩa nông dân này lần lượt tiêu diệt thế lực họ Nguyễn và họ Trịnh, đến năm 1788 quân khởi nghĩa Tây Sơn lật đổ triều Hậu Lê và lập nên chính quyền Tây Sơn. Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, niên hiệu Quang Trung. Năm 1802, Nguyễn Ánh, hậu duệ của chúa Nguyễn, lật đổ chính quyền Tây Sơn, lập nên triều Nguyễn (1802–1945). Dưới thời Gia Long (1802–1820) và Minh Mạng (1820–1841), đất nước đạt tới thời kỳ cường thịnh, kinh tế phồn vinh.
Tuy nhiên, đến năm 1858, khi triều Nguyễn đang dưới thời vua Tự Đức (1847–1883), thì thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam. Sự bành trướng của người Pháp không chỉ đe dọa nền độc lập và chủ quyền quốc gia của Việt Nam, mà còn phá vỡ hệ thống triều cống ở Viễn Đông với Trung Quốc là trung tâm. Tại Việt Nam, các thế lực phương Đông và phương Tây bắt đầu va chạm gay gắt.
Trong bối cảnh lịch sử đó, làn sóng di cư của người Trung Quốc vào Việt Nam diễn ra mạnh mẽ, tạo nên cộng đồng người Hoa đông đảo trong thời kỳ này. Thành phần di cư phần lớn bao gồm các cựu thần và di dân nhà Minh, thương nhân, thợ mỏ, tàn quân của các cuộc khởi nghĩa nông dân và thành viên của các hội kín Trung Hoa. Cùng với thời gian, để thích nghi và phát triển tại địa phương, một bộ phận người Hoa đã dần hòa nhập vào xã hội sở tại và trở thành người Hoa Việt Nam.
Khác với tính chất xâm lược, bành trướng của thực dân phương Tây, người Hoa tại Việt Nam mang đậm dấu ấn của văn hóa Nho giáo – ôn hòa, kính nhường, tiết kiệm và lễ độ. Họ đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam.
3. Đóng góp kinh tế của người Hoa tại Việt Nam từ cuối thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX
Sau khi di cư vào Việt Nam, với kiến thức sản xuất, tri thức khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm phong phú tích lũy được, người Hoa đã lao động chăm chỉ và có những đóng góp to lớn cho sự phát triển xã hội của Việt Nam trong các thời kỳ khác nhau. Trong đó, những đóng góp nổi bật nhất của họ thể hiện ở lĩnh vực kinh tế. Từ cuối thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX, người Hoa đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình khai phá kinh tế sơ kỳ tại các địa phương của Việt Nam. Những người Hoa di cư trong giai đoạn này đã mang đến kỹ thuật nông nghiệp tương đối tiên tiến của Trung Quốc lúc bấy giờ, đồng thời tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực hàng hải và thương mại. Chính nhờ những kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm đó mà nhiều người Hoa cùng với người dân bản địa đã không ngừng khai phá và xây dựng quê hương. Họ đã đóng góp rất lớn trong các lĩnh vực nông nghiệp, khai hoang, xây dựng cảng biển, khai thác mỏ, làm đường giao thông, v.v.
3.1. Trong lĩnh vực nông nghiệp
Ngay từ năm 1679 (niên hiệu Khang Hy thứ 18), Trần Thượng Xuyên (*) đã dẫn theo hơn 3.000 quan binh và thân quyến, chia nhau lên hơn 50 chiến thuyền tiến về phía Nam Việt Nam, đầu quân cho chính quyền họ Nguyễn tại Thuận Hóa. Chúa Nguyễn Phúc Tần tiếp nhận và giữ nguyên cơ cấu thủy quân của họ, phong chức tước và an trí họ tại vùng Đông Phố để tiến hành khai khẩn. Trần Thượng Xuyên cùng quan binh đã khai phá vùng đất rộng lớn ở đại phố châu dọc theo sông Đồng Nai, xây dựng phố chợ, khởi đầu cho một thập kỷ phát triển mang đậm dấu ấn văn hóa Trung Hoa thời Minh. Ông đặc biệt chú trọng đến việc “thu hút thương nhân người Hoa, xây dựng phố xá”, từ đó lôi kéo thêm nhiều Hoa kiều trong khu vực và thu hút thương nhân các nước đến buôn bán, biến Đồng Nai thành đô thị và trung tâm thương mại lớn ở miền Nam Việt Nam. Từ một vùng đất hoang vắng dân cư thưa thớt, đến năm 1698, dân cư nơi đây đã vượt quá 40.000 hộ, phần lớn là Hoa kiều. Sau đó, ông còn dẫn dắt công cuộc khai phá khu vực sông Mê Kông trong suốt tám năm, góp phần to lớn vào việc phát triển các vùng đất mới.
Nhờ sự khai phá cần cù của người Hoa và người dân địa phương, đến đầu thế kỷ XIX, khu vực Tiền Giang và Hậu Giang đã trở thành vựa lúa, vựa cá trù phú của Việt Nam. Trong lĩnh vực thủy lợi, người Hoa cũng có nhiều đóng góp nổi bật như nạo vét sông An Thông, sông Vĩnh Thanh, sông Thụy. Do sông An Thông khi ấy khá nhỏ hẹp, nên năm 1819, vua Gia Long của triều Nguyễn quyết định tổ chức đại quy mô xây dựng công trình thủy lợi sông An Thông, trong đó người Hoa đã đóng góp đáng kể.
Từ sau thế kỷ XVII, nhờ sự nỗ lực khai khẩn, đào kênh mương, xây dựng thủy lợi, mở đất trồng trọt và phát triển nông nghiệp của người Hoa và người Việt, vùng châu thổ sông Mê Kông vốn dĩ là mạng lưới kênh rạch phức tạp đã được chuyển hóa thành những cánh đồng mía, ruộng lúa màu mỡ.
Tại khu vực biên giới phía Bắc Việt Nam, nhiều người Hoa cũng tiến hành canh tác trong lãnh thổ Việt Nam. Chẳng hạn như người Quảng Tây từ đầu thế kỷ XVIII đã đến Việt Nam làm nông, khai khẩn đất hoang, xây dựng hệ thống thủy lợi. Về sau, nhiều thửa ruộng, đập và bờ bao được đặt theo tên người Hoa như ruộng Lữ Lục ở huyện Quảng Hòa, tỉnh Quảng Ninh; đập Lão Lưu, đê vòng Tằng Nhị, v.v.
Sau khi cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc thất bại, nghĩa quân Quảng Tây đã lần lượt di cư sang Việt Nam để canh tác. Tướng sĩ Hắc Kỳ quân cũng từng thực hiện chính sách đồn điền khi hoạt động tại Việt Nam. Những đóng góp này đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển nông nghiệp ở các khu vực liên quan.
3.2. Về phương diện thương mại
Người Hoa di cư sang Việt Nam, bất kể vì lý do gì hay bằng con đường nào, sau khi định cư tại Việt Nam, phần lớn đều tham gia vào các hoạt động buôn bán. Nguyên nhân chủ yếu là do Việt Nam lâu nay vốn là một xã hội phong kiến khép kín, kinh tế tự nhiên chiếm ưu thế, trong khi đó, buôn bán lại là phương thức mưu sinh thuận tiện hơn cả đối với những người Hoa phải rời xa quê hương. Việt Nam có vị trí địa lý thuận lợi, là điểm giao thông trọng yếu giữa Đông và Tây, từ xưa đã trở thành địa bàn cho các thương nhân quốc tế lui tới buôn bán, đồng thời luôn đóng vai trò quan trọng trong mạng lưới thương mại ở khu vực Nam Dương.
Trong thời kỳ tranh chấp giữa họ Trịnh và họ Nguyễn, chính quyền họ Nguyễn ở Quảng Nam tích cực phát triển thương mại hải ngoại, mở rộng thu hút thương nhân nước ngoài đến buôn bán. Victor Purcell trong tác phẩm The Chinese in Southeast Asia đã viết: “Vào nửa sau thế kỷ XVI, khi thương nhân châu Âu đến Đông Dương, vua xứ Giao Chỉ đã cho phép người Hoa lựa chọn nơi thuận tiện để xây dựng một khu phố buôn bán trên lãnh thổ của mình. Thành phố đó chính là Hội An, nay thuộc miền Trung Việt Nam, được chia thành hai khu: khu người Hoa và khu người Nhật… Trong suốt khoảng thời gian bảy tháng của mùa giao thương, các thương nhân nước ngoài đến buôn bán tấp nập, sau đó lại mang hàng hóa trở về.”
Vào thế kỷ XVII và XVIII, Hội An trở thành nơi tụ hội của đông đảo thương nhân Hoa kiều, tàu thuyền nước ngoài qua lại thường xuyên, hoạt động thương mại vô cùng phát triển. Cuối thế kỷ XVII, phố người Hoa ở Hội An đã dài tới ba, bốn dặm. Đến năm 1768, Hội An đã có khoảng 6.000 người Hoa sinh sống, khiến cho hoạt động thương mại ở vùng đất này trở nên đặc biệt sôi động và thịnh vượng.
Vào đầu thế kỷ XVIII, sự khai phá khu vực Hà Tiên của cha con họ Mạc đã biến vùng đất hoang sơ này thành một cảng biển lý tưởng. Nhờ sự khai phá của người Hoa, khu vực Tiền Giang và Hậu Giang thuộc đồng bằng sông Mê Kông trở nên màu mỡ, đồng thời đặt nền móng cho sự phồn thịnh về thương mại của quận Chợ Lớn (nay thuộc TP. Hồ Chí Minh) và khu vực biên giới phía Nam Việt Nam ngày nay.
Vào cuối thế kỷ XVIII, Chợ Lớn bắt đầu hưng khởi. Những người Hoa tham gia thương mại quốc tế phần lớn đều có tàu thuyền riêng và phạm vi hoạt động rộng lớn. Sau khi Nguyễn Phúc Ánh thống nhất Việt Nam (năm 1802), phần lớn người Hoa tập trung tại Chợ Lớn để kinh doanh. Đầu thế kỷ XIX, Chợ Lớn trở thành nơi phồn vinh nhất Việt Nam, ở đây, thương nhân tụ hội đông đúc, với nhiều hội quán người Hoa, bang hội, hội đồng hương, miếu Quan Công, miếu Thiên Hậu… nên được mệnh danh là “Trung Hoa hải ngoại.”
Trong dòng chảy dài của lịch sử di cư và trong quá trình mưu sinh cũng như phát triển, người Hoa tại Việt Nam chủ yếu tập trung tại các thành phố phía Nam, nơi có nền kinh tế thương mại phát triển. Thực tế cho thấy, sự hình thành và hưng thịnh của một số đô thị không thể tách rời khỏi những đóng góp kinh tế và hoạt động khai phá của người Hoa. Sau khi các đô thị này phát triển lên, chúng tiếp tục thu hút đông đảo thương nhân Hoa kiều và cả các thương nhân Việt từ các vùng khác.
Vào những năm 1820, trong số khoảng 315 tàu buôn Trung Quốc ra nước ngoài mỗi năm, có đến một phần ba hướng đến Việt Nam. Dọc theo các cảng lớn nhỏ trên vùng duyên hải An Nam, người Hoa hiện diện khắp nơi - từ những người bán hàng rong cho đến các thương nhân giàu có, từ chủ tàu đến quan chức thu thuế cảng, đều có sự tham gia rộng rãi của người Hoa. Các thành phố cảng của Việt Nam tràn ngập hàng hóa, trong đó phần lớn các mặt hàng như trà, dược phẩm, đồ gốm sứ đều do các thuyền buôn Trung Quốc mang đến.
Từ cuối thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX, thương mại hàng hải của Việt Nam rất thịnh vượng. Chợ Hội An trở thành trung tâm thương mại sôi động với vô vàn loại hàng hóa đa dạng, khó có thể kể hết. Người Hoa chủ yếu kinh doanh các mặt hàng xuất khẩu là đặc sản địa phương của Việt Nam như: tơ sống, tơ lụa, gỗ mun, trầm hương, đường, quế, hồ tiêu, gạo... Còn các mặt hàng nhập khẩu từ Trung Quốc bao gồm: gốm sứ thô và tinh, giấy, trà, bạc, vũ khí và các hàng hóa phương Tây. Dưới thời nhà Thanh, số lượng người Hoa hoạt động trong lĩnh vực thương mại hàng hải tại Việt Nam rất đông đảo và có ảnh hưởng lớn. Người Hoa và các thuyền buôn của họ đã trở thành một lực lượng kinh tế không thể xem nhẹ trong sự phát triển kinh tế của Việt Nam thời bấy giờ.
Người Hoa không chỉ đóng vai trò tích cực trong thương mại hàng hải mà còn có những đóng góp to lớn đối với thương mại biên giới trên đất liền giữa Trung Quốc và Việt Nam. Dưới triều đại nhà Thanh, chính sách mở cửa của Trung Quốc cho phép thương nhân Hoa kiều ra nước ngoài buôn bán. Phía Việt Nam cũng thiết lập các thị trấn biên giới để đón tiếp thương nhân Trung Quốc đến giao thương. Hình thức thương mại biên giới này có hai đặc điểm nổi bật:
(1) Dòng chảy thương mại: Hàng hóa giao thương chủ yếu là hàng Trung Quốc xuất khẩu sang Việt Nam; rất ít hàng Việt Nam được đưa ngược trở lại Trung Quốc. Các mặt hàng Trung Quốc chủ yếu là nhu yếu phẩm hàng ngày, phục vụ không chỉ cho người dân Việt mà còn cho khoảng 25.000 thợ mỏ Trung Quốc đang làm việc tại các mỏ ở miền Bắc Việt Nam.
(2) Chủ thể giao thương: Phần lớn thương nhân tham gia thương mại biên giới là người Trung Quốc hoặc Hoa kiều, trong khi đội ngũ quản lý thương mại biên giới phía Việt Nam lại có không ít người gốc Hoa.
Do đó, người Hoa đóng vai trò then chốt trong quá trình phát triển hoạt động thương mại biên giới giữa Trung Quốc và Việt Nam trong thời kỳ này.
Tóm lại, từ nửa sau thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX, người Hoa làm thương mại, chủ yếu là các tiểu thương bán lẻ, đã có mặt khắp các thành thị và nông thôn Việt Nam, cung cấp đa dạng hàng hóa thiết yếu cho đời sống nhân dân. Vì vậy có thể thấy, người Hoa đã có những đóng góp to lớn cho sự phát triển thương mại của Việt Nam trong giai đoạn lịch sử này.
3.3. Về phương diện khai thác khoáng sản
Lãnh thổ Việt Nam từ Bắc vào Nam đều có trữ lượng khoáng sản khá dồi dào và đa dạng. Những tài nguyên phong phú này đã được khai thác từ thời hậu Lê. Trước thời kỳ Lê Hiển Tông Cảnh Hưng (1740–1786), các khu vực có vàng, bạc, đồng, chì ở miền Bắc hầu như đều đã được mở mỏ khai thác. Do nhu cầu khoáng sản ngày càng tăng, chính quyền phong kiến Việt Nam đã ban hành chính sách khai khoáng tích cực, khuyến khích người nước ngoài đầu tư khai thác.
Nhiều người Hoa đã hưởng ứng lời kêu gọi này, liên tiếp đổ sang Việt Nam đầu tư mở mỏ. Chính quyền Việt Nam cũng sẵn sàng dựa vào vốn liếng của người Hoa để phát triển ngành khai thác khoáng sản trong nước. Mặc dù các triều đình Việt Nam sau đó có ban hành nhiều quy định nhằm hạn chế quy mô và số lượng công nhân ở các mỏ, song trên thực tế, các quy định này ít khi được thực thi nghiêm túc. Phần lớn các mỏ do người Hoa đầu tư đều vượt quá giới hạn cho phép và số lượng công nhân người Hoa tăng mạnh.
Trong thời Nguyễn, nhờ tiến bộ trong kỹ thuật khai thác và nhu cầu khoáng sản gia tăng, quy mô và phạm vi khai thác mỏ cũng được mở rộng đáng kể. Nhà Nguyễn đã cải cách chính sách khai khoáng, tăng cường kiểm soát các mỏ bằng việc yêu cầu mọi hoạt động khai thác tư nhân phải xin phép và nộp thuế cho triều đình. Chính sách này được gọi là “lãnh chinh chế” (tức chế độ thuê khai thác có đóng thuế). Người nhận quyền khai thác được gọi là “thuế hộ”. Chính sách này cho thấy sự coi trọng của nhà Nguyễn đối với ngành công nghiệp khai khoáng, và từ đó, thương nhân Hoa kiều chuyển sang hình thức khai thác theo chế độ “thuế hộ”.
Người Hoa không chỉ giúp đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu khoáng sản trong nước mà còn nộp một lượng thuế lớn cho triều đình phong kiến Việt Nam, đồng thời bản thân các thương nhân cũng thu được lợi nhuận lớn từ hoạt động này. Sự phát triển mạnh mẽ của ngành khai khoáng do người Hoa dẫn dắt đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế tại nhiều khu vực, đặc biệt là vùng miền núi. Các khu vực biên giới phía Bắc Việt Nam vốn trước đó kinh tế lạc hậu, nhưng từ khi có người Hoa mở mỏ, nhiều cơ sở kinh doanh như nhà trọ, quán ăn, hiệu thuốc cũng xuất hiện ngày một nhiều.
4. Kết luận
Từ cuối thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX, người Hoa đã có những đóng góp quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Tại miền Nam, họ cùng với người dân bản địa khai khẩn và kiến thiết vùng đất mới, đặt nền móng cho sự phồn thịnh của miền Nam Việt Nam ngày nay. Trải qua thời gian, để thích nghi và phát triển lâu dài, một bộ phận người Hoa đã dần hòa nhập vào xã hội Việt Nam, trở thành một phần cấu thành của cộng đồng dân tộc Việt.
Việc người Trung Quốc di cư sang Việt Nam thực chất là sự dịch chuyển dân cư trong nội bộ nền văn minh nông nghiệp truyền thống, từ một xã hội nông nghiệp sang một xã hội nông nghiệp khác. Khác sự xâm nhập mang tính bành trướng và thực dân của các nước phương Tây, người Hoa mang theo đặc tính của văn hóa Nho giáo – ôn hòa, khiêm tốn, tiết kiệm và nhân ái – sống hòa thuận với cư dân sở tại, đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa của Việt Nam, đồng thời cũng viết nên một chương rực rỡ trong lịch sử giao lưu giữa Trung Quốc và Việt Nam.
Chú thích:
(*) Trần Thượng Xuyên (1626–1715) là một lãnh tụ Hoa kiều nổi tiếng đã di cư sang Việt Nam vào cuối thời Minh đầu thời Thanh. Ông cũng là một trong những lãnh tụ Hoa kiều sớm nhất trong lịch sử Trung Quốc. Ông đã có những đóng góp xuất sắc trong việc thúc đẩy giao lưu văn hóa Trung – Việt, được người dân địa phương cùng cộng đồng Hoa kiều, người Hoa yêu mến và tôn kính.
Tài liệu tham khảo
1. You Jianshe. 试析17世纪后期至19世纪中期越南封建政府的华人华侨政策"Shixi 17 Shiji Houqi zhi 19 Shiji Zhongqi Yuenan dui Fengjian Zhengfu de Huaren Huaqiao de Zhengce" ["Thử phân tích chính sách đối với Hoa kiều và người Hoa của chính quyền phong kiến Việt Nam từ cuối thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX"]. In trong Tạp chí Đại học Sư phạm Tây Nam Trung Quốc, số 6, tháng 11 năm 2006.
2. Yang Jianfa. "Yuenan Huaqiao Huaren Jinkuang" ["Tình hình gần đây của Hoa kiều và người Hoa ở Việt Nam"]. In trong Nghiên cứu Đông Nam Á, số 1, năm 1991.
3. Yan Xing, Zhang Zhuomei. "Yuenan Huaren: Lishi yu Gongxian" ["Người Hoa ở Việt Nam: Lịch sử và cống hiến"]. In trong Tạp chí Đại học Cao đẳng Sư phạm Văn Sơn, số 1, tháng 5 năm 2002.
4. Trần Trọng Kim. Lược sử Việt Nam. Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2005.
5. Đặng Nghiêm Vạn. Cộng đồng quốc gia Việt Nam. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2003.
6. Victor Purcell. Người Hoa ở Đông Nam Á. Nhà xuất bản Đại học Oxford, 1965.
Bởi lẽ tự nhiên là “Việt Nam Trung Hoa, núi liền núi, sông liền sông”, mà sự tiếp xúc văn hoá–ngôn ngữ giữa hai nước Việt–Trung đã diễn ra từ rất lâu đời và vô cùng sâu đậm. Từ những thế kỉ trước Công nguyên cho đến thế kỉ X là thời kì nước ta chịu sự đô hộ của phong kiến phương Bắc, sự tiếp xúc ngôn ngữ Việt Hán chủ yếu là thông qua “con đường khẩu ngữ”. Giới quan chức cũng như những người dân thường (đặc biệt là thương nhân) đã sang cai trị và làm ăn sinh sống ở đất Việt, và qua họ người Việt đã thu nạp vào trong tiếng nói của mình không ít những từ ngữ thông thường, mà phần nhiều vẫn còn lưu lại cho đến ngày nay, như : buồng (房), buồm (帆), đuốc(烛), đũa (箸), mùa (务), múa (舞)… Từ thế kỉ X trở đi, nước ta giành được độc lập, bắt tay vào công cuộc xây nền tự chủ. Trong bước đầu gây dựng đất nước, từ thời Lý–Trần, cha ông chúng ta đã biết dựa vào văn hoá Hán và chữ Hán để đào tạo nhân tài. Trong công cuộc này, người Việt đã ít khi có dịp tiếp xúc trực tiếp với người Trung Hoa, cho nên “con đường khẩu ngữ” đã lùi dần vị thế gần như độc tôn trước đây để nhường chỗ cho “con đường sách vở”. Và đây chính là lúc cách đọc chữ Hán ở Việt Nam bắt đầu thoát li khỏi ngữ âm thực tế của tiếng Hán ở Trung Hoa, dần dần hình thành hệ thống âm Hán Việt. Cũng từ thời trung đại, tiếng Việt và tiếng Hán đều rất gần gũi nhau về mặt loại hình: đều là ngôn ngữ đơn lập âm tiết tính. Với hai ngôn ngữ cùng chung loại hình, lại có cách đọc Hán Việt hoàn chỉnh như vậy, thì hàng loạt các từ ngữ tiếng Hán đi vào tiếng Việt để làm thành một lớp từ ngữ Hán Việt khá phong phú trong tiếng Việt là điều rất tự nhiên.
Như vậy, từ ngữ Hán Việt đi vào tiếng Việt là qua con đường sách vở và có lẽ chỉ những người có học mới thực sự am hiểu và thường xuyên sử dụng. Còn đại đa số người dân thất học, những người nông dân chân lấm tay bùn, thì họ chỉ có thể nắm biết được một ít những từ Hán Việt đơn tiết thông thường (như: thiên (天), địa (地), quỷ (鬼), thần(神), cúng 供, tế (祭),…), những từ Hán Việt đã Việt hoá triệt để đôi khi cả về mặt ngữ âm, được gọi là từ ngữ “Hậu Hán Việt” (như: gan (胆), gương (镜), rồng (龙), rạng (朗), vạch (划), vẽ (画), ...), những từ gốc Hán từ trước khi hình thành âm Hán Việt, được gọi là từ ngữ “Tiền Hán Việt” (như đã dẫn ở trên: buồng (房), buồm (帆), đuốc (烛), đũa (箸), mùa (务), múa (舞),…) và cả những từ đi vào tiếng Việt theo con đường khẩu ngữ từ bà con Hoa kiều ở thời hiện đại (như: vằn thắn, tào phớ, phá xang, tổ tôm, tài xế, mì chính). Chỉ từ sau Cách mạng Tháng Tám, những người nông dân mù chữ ấy mới có dịp học hành, mới có dịp tham gia vào các sinh hoạt đoàn thể, sinh hoạt xã hội, khi ấy họ mới có dịp tiếp xúc với những từ Hán Việt đánh dấu cho sự khởi đầu cuộc sống mới của họ: “Có khai hội, yêu cầu, chất vấn. Có mẹ hiền bắt rận cho những đứa con xa” (như nhà thơ Hồng Nguyên đã ghi lại trong bài Nhớ). Nhờ vậy, từ Hán Việt chẳng những không bị bài trừ, mà còn có cơ phát triển thêm lên.
Trong đời sống ngôn ngữ hôm nay ở Việt Nam, dường như đã và đang có một xu hướng khác rất đáng ghi nhận. Đó là ngày càng xuất hiện nhiều hơn những từ ngữ Hán Việt tự tạo (nội sinh), tức là những từ ngữ được chính người Việt tạo ra trên cơ sở vốn liếng đã có từ cha ông để lại – những ngữ tố gốc Hán đọc với âm Hán Việt. Đó là trường hợp của những từ ngữ như: sơ tán, di tản, cư xá, tiếp viên, tiếp thị, hội nhập, hội thảo, hội chứng, lập trình, ứng viên, ứng xử, cư xá,…. Những từ ngữ như vậy, tuy có thể “phiên chuyển” thành chữ Hán như: 初散,移散,接员,接市,会入,会讨,会症,立程,应员,应处,居舍… nhưng trong một số từ điển tiếng Hán hiện đại như Từ điển Hán ngữ hiện đại (现代汉语词典), Từ điển quy phạm Hán ngữ hiện đại (现代汉语规范词典) đều không hề tìm thấy chúng. Đó chính là sản phẩm của người Việt một khi họ thực sự làm chủ cái vốn ngữ tố Hán Việt cơ bản từ lâu đã có cuộc sống riêng trong tiếng Việt. Một đôi khi chính những từ ngữ Hán Việt nội sinh này đã đẩy lùi những từ ngữ Hán Việt nguyên ngữ đã một thời vang bóng trước đây, như hội thảo đã thay thế hẳn khai hội (开会), và phần nào thay thế cho hội nghị (会议). Tuy nhiên, cũng không nên nghĩ rằng ngày nay không còn dịp để mượn từ Hán Việt “nguyên khối” từ tiếng Hán. Chẳng hạn, gần đây Bộ Giáo dục đã cho thành lập Cục Khảo thí và Kiểm tra chất lượng giáo dục, trong tên gọi đó có từ Hán Việt “nguyên khối” khảo thí(考试), chứ không phải là từ Hán Việt tự tạo thi cử.
Trong khoảng một hai chục năm gần đây, có một con đường mới hẳn đang hình thành để từ ngữ tiếng Hán đi vào sách báo tiếng Việt. Đó là “con đường dùng phiên âm” dựa theo “phiên âm tự mẫu” của tiếng Hán. “Phiên âm tự mẫu” là bộ chữ cái Latin dùng để chú âm (phổ thông) cho chữ Hán, được Chính phủ Trung Quốc công bố năm 1958. Hiện nay, bộ chữ cái này đã được sử dụng rộng rãi ở Trung Quốc cũng như trên quốc tế, khi có nhu cầu ghi âm cho các chữ Hán, đặc biệt là dùng cho nhân danh, địa danh, tên các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, bộ môn, các sản phẩm và tác phẩm v.v… Chữ Quốc ngữ của ta cũng là một thứ chữ ghi âm theo chữ cái Latin, cho nên việc tiếp nhận các từ ngữ Hán vào văn bản Việt dưới hình thức “phiên âm tự mẫu” là việc quá ư thuận lợi. Qua khảo sát bước đầu của chúng tôi trên một vài tờ báo ở Hà Nội (báo “Thể thao và Văn hoá) và Thành phố Hồ Chí Minh (báo “Thanh niên”) trên các số phát hành gần đây (tháng 2 và tháng 3/2006), xin nêu một vài thí dụ như sau:
1. “Với số dân 60.000 người, nằm cách thành phố Thượng Hải khoảng 130 km về phía bắc, làng Huaxi thuộc tỉnh Giang Tô là niềm mơ ước của nhiều người. Thứ đồ trang trí đẹp nhất, giá trị nhất cho những con đường làng ở Huaxi chính là hình ảnh những nụ cười rạng rỡ của người dân nơi đây…” (trong bài “Thiên đường” ở Trung Quốc, báo Thanh Niên, số 87, thứ ba, 28/3/2006).
2. “Người đề ra công thức này không ai khác chính là vị cựu trưởng làng Wu Renbao…” (trong bài “Thiên đường” ở Trung Quốc, báo Thanh Niên, số 87, thứ ba ngày 28/3/2006).
3. “Đối với người dân Wuli, một ngôi làng ở miền đông Trung Quốc, ô nhiễm không khí, ô nhiễm nguồn nước chẳng phải chỉ là chuyện trên bàn giấy…” (trong bài Làng ung thư ở Trung Quốc, báo Thanh Niên, số 80, thứ ba, ngày 21/3/2006).
4. “Tây An, thành phố lịch sử nổi tiếng thuộc tỉnh Thiểm Tây, tây bắc Trung Quốc, hiện đang tìm kiếm vốn cho chu kì trùng tu mới tại khu lăng mộ của Hoàng đế, nhà cai trị huyền thoại của Trung Quốc, toạ lạc trên đồi Qiaoshan ở huyện Huangling…” (trong bài “Tây An tìm tài trợ trùng tu mộ Hoàng đế Tần Thuỷ Hoàng, báo Thể thao và Văn hoá, số 36, thứ bảy, ngày 25/3/2006).
5.“Giáo sư He Weifang thuộc khoa Luật của Đại học Bắc Kinh cho biết tình trạng trên xảy ra tại hầu hết các đại học danh tiếng của nước này…” (trong bài Trung Quốc: 60% tiến sĩ đạo văn, báo Thanh Niên, số 75, thứ năm, ngày 16/3/2006).
6. “Trong số các quan tham bị sa lưới có cựu giám đốc một chi nhánh của Công ti điện lực Chuanhong ở tỉnh Tứ Xuyên, …” (trong bài Trung Quốc: bắt giữ hơn 400 quan tham bỏ trốn, báo Thanh Niên, số 85, chủ nhật, ngày 26/3/2006).
7. “Được biết trong dịp Tết vừa qua, các thành viên của đoàn xiếc (gồm Wang Ji Feng, Chen Dao Mei, Jiao Shi Guo, Sun Hua Dong, Liu Jian Nan…) đã được người xem đón nhận nông nhiệt, đặc biệt là các khán giả nhí…” (trong bài Đoàn xiếc mô tô bay Vương Trung Vương (Trung Quốc) đã “đáp” về Thảo Cầm Viên Sài Gòn, báo Thanh Niên, số 72, thứ hai, ngày 13/3/2006).
8. “Dạ Yến sẽ nằm trong cuộc tranh đua giành đề cử Oscar năm sau”, Wang Zhonglei, Giám đốc công ti Huayi Brothers, nơi sản xuất bộ phim, cho biết…” (trong bài Phùng Tiểu Cương hi vọng được đề cử giải Oscar năm sau với Dạ Yến, báo Thể thao và Văn hoá, số 22, thứ ba, ngày 21/2/2006).
Như vậy, chỉ lướt qua gần chục bài báo có nội dung liên quan đến Trung Quốc, thì ta đã gặp hàng chục những từ ngữ tiếng Hán dưới dạng phiên âm bằng chữ cái Latin. Điều này chứng tỏ rằng, tiếng Hán đang du nhập vào tiếng Việt một cách khá “rôm rả” qua bộ áo phiên âm. Vì sao vậy? Theo chúng tôi quan sát, thì không phải bất kì bài báo tiếng Việt nào viết về Trung Quốc cũng có “tài liệu nguồn” là tiếng Hán, tức là bản nguyên văn của chúng đã được viết bằng ngôn ngữ có chữ viết Latin, như tiếng Anh, tiếng Pháp… Nếu đã như vậy, thì dịch giả (biết hay không biết tiếng Hán) không còn cách nào khác là “bê nguyên xi” những cụm từ ngữ dạng phiên âm đó, vừa thuận tiện, lại bảo đảm được độ chính xác, trung thực của bài báo. Hay ngay cả khi “tài liệu nguồn” được viết chính bằng tiếng Hán, và người viết tin tiếng Việt (cũng là dịch giả) đương nhiên là biết tiếng Hán, thì việc xuất hiện các từ ngữ tiếng Hán dưới dạng phiên âm cũng không phải là không phổ biến. Bởi đâu phải bất kì người dịch nào cũng thông thạo cách đọc Hán Việt, để có thể ngay tức khắc, phiên chuyển những danh từ tiếng Hán ấy ra âm Hán Việt. Muốn làm được thế, họ phải mất thời gian tra cứu, mà xem ra cũng không thực sự cần thiết. Vậy thì, chi bằng cứ theo âm đọc mà phiên viết những từ ngữ Hán đó sang văn bản chữ Việt, cũng rất là thuận tiện, lại không kém phần chính xác. Nói như vậy không có nghĩa là những danh từ riêng tiếng Hán được viết theo âm Hán Việt đã hoàn toàn vắng bóng trên mặt báo. Ngược lại, chúng thường xuyên xuất hiện trên báo chí, thậm chí còn xuất hiện đồng thời, trong cùng một bài báo, với những từ ngữ tiếng Hán viết theo lối phiên âm. Chẳng hạn như:
1. “Những cảnh đấu võ và bay người trên không trung, yếu tố cơ bản đã tạo nên thành công quốc tế cho bộ phim Ngoạ hổ tàng long của đạo diễn Lý An, cũng được đạo diễn Phùng vận dụng triệt để trong Dạ Yến. Và để đạt được điều đó, ông đã phải “cậy nhờ” tới bộ ba góp phần làm nên thành công của Ngoạ hổ tàng long, gồm chuyên gia võ thuật Yuen Woo Ping, nhà soạn nhạc Tan Dun và đạo diễn nghệ thuật Tim Yip…Vai nữ chính trong phim vẫn được giao cho Chương Tử Di…” (trong bài Phùng Tiểu Cường hy vọng được đề cử Oscar năm sau với Dạ Yến, báo Thể thao và Văn hoá, số 22, thứ ba, ngày 21/2/2006).
2. “Liang Liang, nhà phê bình phim Đài Loan, thì nhận định, chiến thắng của Lý An có thể sẽ là nguồn cảm hứng cho nhiều đạo diễn châu Á muốn thử vận may ở Hollywood,…” (trong bài Sau giải Oscar của Lý An, Hollywood không ưu ái hơn với các đao diễn châu Á, báo Thể thao và Văn hoá, số 29, thứ sáu, ngày 10/3/2006).
3. “Những ai muốn khám phá về các màn xiếc độc đáo của nhân vật dặc biệt Liu Jian Nan cũng như của đoàn xiếc Vương Trung Vương có thể đến Thảo Cầm Viên vào khoảng thời gian từ 17–22 giờ mỗi ngày để thưởng thức.” (trong bài Đoàn xiếc mô tô bay Vương Trung Vương (Trung Quốc) đã “đáp” về Thảo Cầm Viên Sài Gòn, báo Thanh Niên, số 72, thứ hai, ngày 13/3/2006).
Từ những thí dụ trên, ta thấy rằng, những từ ngữ tiếng Hán được phiên ra âm Hán Việt hầu như đều là những từ ngữ quá đỗi quen thuộc với độc giả Việt Nam. Chẳng hạn như: Ngoạ hổ tàng long, Lý An, Chương Tử Di,… Thượng Hải, Tây An, Thiểm Tây, Tứ Xuyên,… Khi gặp các từ ngữ này, dù là ở dạng phiên âm trong văn bản ngoài chữ Hán, thì dịch giả, với vốn âm Hán Việt nào đó đã nằm lòng, vẫn thích đưa chúng quay trở về dạng từ ngữ Hán Việt đã quen thuộc đối với người Việt Nam. Và rõ ràng, khi tiếp xúc với những từ ngữ Hán Việt này, độc giả Việt Nam sẽ thấy gần gũi hơn rất nhiều so với những từ ngữ tiếng Hán viết theo lối phiên âm tự mẫu.
Ngoài ra, có một điều cần nói thêm rằng, trong những năm gần đây, không chỉ trên mặt báo, mà còn trên truyền hình hay trong những câu chuyện đời thường của người dân Việt Nam, ta vẫn thường nhìn thấy, nghe thấy những từ ngữ tiếng Hán vô cùng quen thuộc như wushu, sanshou, hay gần đây nhất là gongfu (trong bộ phim võ hiệp nổi tiếng của Trung Quốc – Gongfu – 功夫). Đây đều là những từ ngữ tiếng Hán chỉ các bộ môn võ thuật của Trung Quốc, đó là 武术,散手,功夫. Điều đáng chú ý là trong khi sanshou và gongfu còn được nhắc đến cả dưới dạng âm Hán Việt là tán thủ và công phu, thì ta không hề thấy wushu xuất hiện dưới hình thức âm Hán Việt tương ứng với nó là võ thuật. Nhất định phải gọi môn võ này là wushu theo chữ cái phiên âm. Bởi lẽ, trong tiếng Việt, võ thuật từ lâu đã là một danh từ chung dùng để chỉ các môn phái võ nghệ, chứ không phải đặc chỉ môn phái wushu với những đặc điểm riêng của nó. Vậy là, trong trường hợp này, con đường du nhập của từ ngữ tiếng Hán theo lối phiên âm tự mẫu đã phát huy thêm một tác dụng quan trọng nữa, nó giúp ta khu biệt danh từ chỉ một môn võ cụ thể với một danh từ chỉ võ nghệ nói chung.
Như vậy là, từ ngữ tiếng Hán du nhập vào tiếng Việt cho dù là bằng con đường khẩu ngữ, con đường sách vở hay là dạng phiên âm theo tự mẫu, thì từ thời xa xưa cho đến thời hiện đại cũng đều hết sức mạnh mẽ và bền bỉ. Cùng với sự trôi đi của thời gian, khi mà tình trạng cộng cư của người Hoa và người Việt không còn vị thế nổi bật trong sinh hoạt kinh tế thời hiện đại, khi mà tầng lớp nho sĩ am hiểu âm Hán Việt thưa thớt dần, thì sự du nhập của từ ngữ tiếng Hán vào tiếng Việt theo con đường khẩu ngữ hoặc con đường phiên âm Hán Việt sẽ không còn đậm nét như trong quá khứ nữa. Bù lại, xu hướng sử dụng ngữ tố Hán Việt để tạo từ mới ngày càng được hưởng ứng, và một con đường mới mẻ cho sự du nhập từ ngữ tiếng Hán vào tiếng Việt – con đường dùng “phiên âm tự mẫu” đang hình thành. Trên con đường mới mẻ này, số phận của các từ ngữ Hán phiên âm trong văn bản Việt sẽ ra sao? Chắc chắn chúng sẽ vấp phải không ít khó khăn để được tiếp nhận, song triển vọng của chúng cũng khá rõ ràng, vì sự tiện lợi và cần thiết của chúng ở những tình cảnh nhất định là không thể phủ nhận.
Tài liệu tham khảo
1. Lý Hành Kiện (chủ biên). Xiandai Hanyu Guifan Cidian (现代汉语规范词典). Nxb Ngoại ngữ Giáo học dữ Nghiên cứu & Nxb Ngoại văn, Bắc Kinh, 2004.
2. Nguyễn Tài Cẩn. Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt (tái bản có sửa chữa). Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002.
3. Nguyễn Quang Hồng. Âm tiết và loại hình ngôn ngữ (tái bản). Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002.
4. Nguyễn Quang Hồng. Giữ gìn và phát triển tiếng Việt, ngôn ngữ chung của các dân tộc Việt Nam. Tạp chí “Ngôn ngữ & Đời sống”, số 1+2/2004.
5. Phòng Từ điển Viện Ngôn ngữ học Trung Quốc biên soạn (tu đính bản). Xiandai Hanyu Cidian (现代汉语词典). Nhà in Thương Vụ, Bắc Kinh, 1999.
Theo Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 5/2006, trang 34-37.
Vào ngày 01.04.2025, đúng dịp tưởng niệm 24 năm ngày mất của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam (Vietnam Studies Center) thuộc Đại học Fulbright Việt Nam chính thức ra mắt tập đầu tiên của chuỗi podcast Trịnh Công Sơn Của Tôi & Của Chúng Ta, với sự phối hợp thực hiện cùng gia đình cố nhạc sĩ. Tựa đề tập đầu tiên, Căn nhà ta nằm nhỏ, gợi nhớ về một không gian ấu thơ, nơi những giai điệu đầu tiên của người nhạc sĩ tài hoa bắt đầu vang lên.
Podcast Trịnh Công Sơn Của Tôi & Của Chúng Ta thuộc khuôn khổ dự án “Nghiên cứu và Biểu diễn Âm nhạc Trịnh Công Sơn” do Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam khởi xướng. Dự án nhằm mở ra một cách tiếp cận mới đối với di sản văn hóa và tư tưởng của nhạc sĩ, không chỉ qua những ca từ quen thuộc, mà còn qua ký ức, triết lý sống, và sự thấm đẫm tinh thần “ôm lấy muôn loài” trong từng tác phẩm. Với hình thức lịch sử truyền miệng, mỗi tập podcast là một cuộc trò chuyện với một vị khách mời từng gắn bó với Trịnh Công Sơn – từ người thân trong gia đình đến những người bạn, tri kỷ, nghệ sĩ hay trí thức đồng hành cùng ông trong hành trình sáng tạo và suy tưởng.
Không chỉ dừng lại ở những câu chuyện cá nhân, mỗi tập podcast kéo dài hơn 60 phút còn mang đến phần trình diễn những ca khúc ít được biết đến của Trịnh Công Sơn, do các sinh viên thuộc Câu lạc bộ Âm nhạc Fulbright trình bày. Với tinh thần nghiên cứu nghiêm túc, các bạn không chỉ hát mà còn đào sâu vào ngữ nghĩa ca từ, giai điệu và bối cảnh lịch sử – nơi âm nhạc của Trịnh từng đóng vai trò như tiếng nói của thế hệ sinh viên, của phản kháng ôn hòa, của tình yêu và nhân bản giữa biến động thời cuộc.
Dự kiến kéo dài trong nhiều tập với các khách mời như nhà thơ Nguyễn Duy, giáo sư Tương Lai, họa sĩ Lê Thiết Cương, thầy Trung Hải…, chuỗi podcast là không gian để những lát cắt cuộc đời và di sản Trịnh Công Sơn được kể lại bằng giọng nói thân quen, bằng âm nhạc, và bằng sự đồng cảm từ nhiều thế hệ.
Trong bối cảnh kỷ niệm 50 năm thống nhất đất nước, Trịnh Công Sơn Của Tôi & Của Chúng Ta không chỉ là lời tưởng niệm mà còn là một nỗ lực kết nối di sản văn hóa – lịch sử với đời sống hôm nay. Với dự án này, Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam và gia đình cố nhạc sĩ hy vọng mang đến một chất liệu phong phú, đa chiều và đầy tính con người để hiểu thêm về Trịnh – không chỉ như một nhạc sĩ, mà còn như một biểu tượng văn hóa, một người kể chuyện, một người bạn tinh thần của bao thế hệ Việt Nam.
1. Giới thiệu về Bộ sưu tập
Bộ sưu tập Tinh hoa Văn học và Ngôn ngữ Việt Nam là một tập hợp các công trình nghiên cứu quan trọng về văn học, ngôn ngữ và chữ viết Việt Nam. Đây không chỉ là một kho tư liệu phản ánh chiều sâu của di sản văn hóa dân tộc qua nhiều thời kỳ, mà còn là một nền tảng quan trọng phục vụ cho công tác nghiên cứu và giảng dạy trong lĩnh vực khoa học nhân văn. Bộ sưu tập này mang đến một góc nhìn toàn diện về sự phát triển của văn học Việt Nam, từ thời kỳ trung đại đến hiện đại, đồng thời làm nổi bật những giá trị văn hóa và tư tưởng gắn liền với từng giai đoạn lịch sử.
2. Vai trò của bộ sưu tập trong nghiên cứu văn học và ngôn ngữ
Bộ sưu tập không chỉ tập trung vào các tác phẩm văn học tiêu biểu, mà còn đưa vào hệ thống nghiên cứu về các thể loại văn chương quan trọng như lục bát, song thất lục bát, truyện thơ, và văn xuôi bác học. Sự phong phú về thể loại không chỉ giúp người đọc hiểu rõ hơn về sự vận động của văn học Việt Nam qua các thời kỳ, mà còn mở ra hướng tiếp cận liên ngành giữa văn học và ngôn ngữ học.
Bên cạnh đó, bộ sưu tập còn tập trung vào các nghiên cứu về chữ viết và ngữ âm tiếng Việt trong những giai đoạn lịch sử khác nhau. Những văn bản chữ Hán - Nôm, chữ Quốc ngữ sơ kỳ và các tư liệu ngôn ngữ học khác trong bộ sưu tập đã cung cấp một nguồn dữ liệu quý giá để nghiên cứu sự hình thành và phát triển của tiếng Việt. Điều này có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với ngành ngôn ngữ học lịch sử mà còn đối với công tác bảo tồn và phát huy di sản chữ viết dân tộc.
3. Di sản văn hóa và sự tiếp nối truyền thống
Một trong những đóng góp quan trọng của bộ sưu tập là giúp người đọc tiếp cận các tác phẩm văn học cổ điển qua những nghiên cứu có giá trị, làm sáng tỏ những tầng ý nghĩa ẩn chứa trong từng tác phẩm. Chẳng hạn, việc nghiên cứu về Truyện Kiều không chỉ dừng lại ở phân tích văn bản mà còn mở rộng sang những phương diện như thi pháp, lịch sử văn bản học, và sự tiếp nhận của độc giả qua các thời kỳ. Tương tự, những nghiên cứu về Chinh phụ ngâm hay các tác phẩm của Đoàn Thị Điểm đã làm rõ những đặc trưng của văn chương nữ lưu và vai trò của phụ nữ trong đời sống văn hóa Việt Nam.
Ngoài ra, bộ sưu tập còn góp phần vào việc nhận diện và bảo tồn những giá trị ngôn ngữ, văn hóa truyền thống trong bối cảnh hiện đại. Những nghiên cứu về từ vựng, ngữ âm, và ngữ pháp tiếng Việt trong quá khứ không chỉ có giá trị học thuật mà còn có thể đóng góp vào công tác giảng dạy tiếng Việt cho người nước ngoài, cũng như việc biên soạn từ điển và tư liệu ngôn ngữ.
4. Tính liên ngành và ứng dụng trong nghiên cứu hiện đại
Trong bối cảnh nghiên cứu hiện nay, bộ sưu tập Tinh hoa Văn học và Ngôn ngữ Việt Nam không chỉ dừng lại ở việc lưu trữ tri thức mà còn mở ra những hướng tiếp cận mới, kết hợp giữa các phương pháp nghiên cứu truyền thống với công nghệ hiện đại. Việc số hóa các văn bản Hán - Nôm và sử dụng trí tuệ nhân tạo trong xử lý văn bản đã giúp việc tiếp cận tư liệu trở nên thuận tiện hơn, đồng thời tạo cơ sở cho những phân tích ngôn ngữ học corpus-based (dựa trên ngữ liệu lớn). Điều này không chỉ nâng cao hiệu quả nghiên cứu mà còn tạo ra cơ hội kết nối giữa các nhà khoa học trong và ngoài nước.
Hơn nữa, bộ sưu tập cũng thể hiện rõ tinh thần đối thoại học thuật giữa các thế hệ nghiên cứu. Những công trình kinh điển của các học giả tiền bối được tiếp tục khai thác, đối chiếu với các phát hiện mới, từ đó góp phần làm phong phú thêm hiểu biết về văn học và ngôn ngữ Việt Nam. Đây là một yếu tố quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển di sản học thuật, đồng thời khẳng định vai trò của bộ sưu tập như một trung tâm tri thức có tầm ảnh hưởng sâu rộng.
5. Lời kết
Bộ sưu tập Tinh hoa Văn học và Ngôn ngữ Việt Nam không chỉ là một kho tư liệu quý giá mà còn là một biểu tượng của sự tiếp nối và phát triển trong nghiên cứu văn học và ngôn ngữ học. Với nội dung phong phú, phương pháp tiếp cận đa dạng và khả năng ứng dụng rộng rãi, bộ sưu tập này đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và số hóa hiện nay, việc tiếp tục nghiên cứu và mở rộng bộ sưu tập này sẽ góp phần khẳng định vị thế của văn học và ngôn ngữ Việt Nam trong nền tri thức nhân loại, đồng thời tạo điều kiện cho sự giao lưu học thuật giữa các nền văn hóa trên thế giới.
Từ những ngọn núi phủ sương mù của Tây Bắc đến bờ biển rực nắng miền Trung và mạng lưới sông ngòi chằng chịt của đồng bằng sông Cửu Long, Khoảnh khắc Việt Nam là một hành trình nhiếp ảnh tuyệt đẹp qua những miền đất cuốn hút nhất Đông Nam Á. Bộ sưu tập này không chỉ tái hiện vẻ đẹp thiên nhiên kỳ vĩ, những công trình kiến trúc độc đáo mà còn phản ánh chiều sâu văn hóa của Việt Nam, mang đến một cái nhìn gần gũi và chân thực về tâm hồn dân tộc.
Mỗi bức ảnh trong bộ sưu tập là minh chứng cho niềm đam mê và sự tận tâm của năm nhiếp ảnh gia tài năng: Đào Ngọc Cảnh, Nguyễn Văn Hải, Nguyễn Bá Ngọc, Nguyễn Quang Ngọc và Nguyễn Tấn Anh Phong. Với con mắt nghệ sĩ và sự chính xác của một nhà tư liệu, họ đã khéo léo ghi lại những khoảnh khắc đáng giá nhất của Việt Nam—từ núi rừng hoang sơ, đền đài cổ kính, thành phố sôi động đến những ngôi làng thanh bình. Bộ ảnh được thực hiện từ năm 2020 đến đầu năm 2025, ghi dấu một giai đoạn đầy biến động nhưng vẫn tràn ngập những giá trị văn hóa trường tồn, tạo nên một câu chuyện hình ảnh kết nối quá khứ và hiện tại.
Ở vùng Tây Bắc, ống kính của họ đã bắt trọn vẻ đẹp huyền ảo—những thửa ruộng bậc thang uốn lượn như những bậc thang ngọc bích đổ xuống thung lũng mờ sương, hay hình ảnh người H’Mông, Dao, Thái khoác lên mình những bộ trang phục rực rỡ, lưu giữ tinh hoa văn hóa qua bao thế hệ. Tiến về miền Trung, bộ ảnh mở ra bức tranh về di sản văn hóa rực rỡ, nơi có phố cổ Hội An nhộn nhịp, Thánh địa Mỹ Sơn trầm mặc và kinh thành Huế cổ kỉnh kể lại những câu chuyện vương triều xa xưa. Cuối cùng, hành trình đưa ta về miền Tây Nam Bộ, nơi cuộc sống trôi chảy cùng nhịp điệu của sông nước, với những khu chợ nổi, vườn cây sai trái và những ngôi nhà sàn soi bóng lên mặt nước song yên ả.
Khoảnh khắc Việt Nam không chỉ đơn thuần là một bộ sưu tập ảnh—đó là lời tri ân dành cho một đất nước tuy nhỏ bé nhưng vô cùng phong phú về thiên nhiên và văn hóa. Bộ ảnh này không thể ra đời nếu không có sự hỗ trợ quý báu từ Ban Biên tập Tạp chí Heritage, những người đã kết nối và tạo điều kiện để Dự án Số hóa Việt Nam hợp tác cùng các nhiếp ảnh gia xuất sắc này.
Dự án Số hóa Việt Nam gửi lời cảm ơn chân thành đến các nhiếp ảnh gia và Ban Biên tập Tạp chí Heritage vì sự đóng góp và đồng hành của họ. Nhờ họ, Khoảnh khắc Việt Nam trở thành một bức thư tình gửi đến quê hương, một lời mời gọi khán giả cùng đắm chìm trong vẻ đẹp duyên dáng của đất nước Việt Nam. Mỗi bức ảnh không chỉ là một khoảnh khắc được ghi lại, mà còn là cánh cửa mở ra tâm hồn Việt Nam, một hành trình khám phá phong cảnh, truyền thống và tinh thần kiên cường của con người nơi đây.
Năm 1923, trong bài “Chớp bóng Kim Vân Kiều” trên tờ Trung Bắc Tân Văn, Nguyễn Văn Vĩnh đã hình dung Kim Vân Kiều như một phương tiện để thể hiện chiều sâu tâm hồn của người Việt Nam qua điện ảnh—một loại hình nghệ thuật được du nhập từ Tây phương. Bộ phim cũng giống như câu chuyện Kim-Kiều và có một số phận được đánh dấu bởi gặp gỡ, chia ly và tái ngộ. Là tác phẩm điện ảnh đầu tiên của Việt Nam, bộ phim Kim Vân Kiều (1924) kết trái từ sự giao thoa của văn học Việt và kỹ thuật điện ảnh Tây Phương, song bị thất lạc và rơi vào lãng quên cho đến khi được phục dựng tại đây—không khác mấy so với nhân duyên hợp tan-tan hợp của Kim-Kiều. Tuy nay đã không còn nguyên vẹn thước phim, những tấm hình còn sót lại từ phim, được lưu giữ trong tập sách do Công ty Phim và Điện ảnh Đông Dương ấn bản sau đó, vẫn tồn tại như một minh chứng cho sự kháng cự của văn hóa Việt Nam trước sức thống trị thuộc địa. Thông qua việc chắp nhặt & tái tạo những bức hình còn vương bóng thế kỷ XX bằng trí tuệ nhân tạo trong một không thời gian điện ảnh chậm, Chớp-bóng Kim Vân Kiều tạo nên một cuộc gặp gỡ chớp nhoáng thoáng bóng đoạn trường giữa hiện tại và quá khứ, giữa lịch sử & phỏng đoán. Cũng như cuộc gặp gỡ ngắn ngủi giữa Kim và Kiều báo trước sự chia ly không thể tránh khỏi, mối tương tác của chúng ta với bộ phim đã mất này cũng vậy—mong manh và khiến ta tự hỏi:
“Bây giờ rõ mặt đôi ta,
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao.”
Bài đã đăng trên báo Tuổi Trẻ, ngày 02-02-2025
Lịch sử điện ảnh Việt Nam ghi nhận bộ phim đầu tiên được sản xuất cách nay đúng 100 năm: phim Kim Vân Kiều được cải biên từ Truyện Kiều, do Việt - Pháp hợp tác sản xuất và trình chiếu tại Hà Nội năm 1924.
Dù có mâu thuẫn trong đánh giá của báo chí đương thời, nhưng phim đã cho thấy nhu cầu khẳng định tinh thần quốc gia và giá trị văn hóa dân tộc bằng các phương tiện truyền thông "hiện đại" trước ảnh hưởng của văn minh phương Tây.
Bộ phim nay đã thất truyền nhưng vẫn còn may mắn sót lại những bức ảnh hiếm hoi, và có những bạn trẻ của thế kỷ 21 đang nỗ lực hồi sinh nó nhờ vào kỹ thuật số và trí tuệ nhân tạo (AI).
Bạn đọc báo Trung Bắc Tân Văn số ra ngày thứ bảy 9-6-1923 hẳn phải ít nhiều ngạc nhiên khi thấy ngay trên trang nhất trang trọng đăng bài của ông chủ báo Nguyễn Văn Vĩnh với tựa đề "Chớp bóng Kim Vân Kiều".
Cho đến thời điểm đó, điện ảnh thế giới khai sinh được 33 năm, rạp chiếu phim đầu tiên tại Hà Nội được người Pháp xây dựng khánh thành được 3 năm sau nhiều năm chỉ trình chiếu trong các công thự và doanh trại của người Pháp.
Ông Vĩnh mở đầu bằng việc nhấn mạnh vị trí trọng yếu của nghề chớp bóng trong thế giới tân thời: "Nghề chớp bóng (cinéma) ngày nay đã thành ra một cái cơ quan cổ động rất là công hiệu, một cách bắt buộc người ta phải biết đến, phải lưu tâm đến những điều, mà cứ đằng thẳng thì không mấy người nghĩ đến".
Nguyễn Văn Vĩnh thấy được ở chớp bóng khả năng giáo dục, quảng bá không phải bằng ngôn từ mà bằng "hình ảnh hoạt động" vượt ngoài biên giới quốc gia, đem đến sự đồng cảm mà "ai cũng hiểu được" rộng tầm thế giới.
Chính ở tính chất phổ thông hóa của điện ảnh mà "bao nhiêu những văn hay, những tư tưởng cao, những ý kiến có ích cho đời, những câu chuyện khéo đặt, những mỹ công tuyệt tác của các nhà đại tư tưởng trong thế giới, xưa kia" không còn là đặc quyền của một lớp độc giả tinh hoa mà được san sẻ rộng khắp đến mọi người như một "cao thú" bình dân, trở thành "một cuộc tiêu khiển cho tinh thần" của họ.
Nguyễn Văn Vĩnh - thông qua việc cổ vũ đưa Truyện Kiều lên màn ảnh - đã khởi động cuộc đối thoại với việc khai hóa văn minh của phương Tây mà các thế lực thực dân gọi là sứ mệnh.
Bài “Chớp bóng Kim Vân Kiều” của Nguyễn Văn Vĩnh đăng trên Trung Bắc Tân Văn (9-6-1923)
Theo đó, Nguyễn Văn Vĩnh nhắc rằng người Âu - Mỹ thường tự hào với văn chương - tư tưởng của họ, cho đó là "một cái tư cách đặc biệt của một nhân loại khác" các dân châu Á, và đã đi xa hơn nhiều các nước này "trên con đường tiến hóa".
Kiểm lại trong di sản văn chương, tư tưởng của dân tộc, Nguyễn Văn Vĩnh nhận ra viên ngọc quý Truyện Kiều đủ để minh chứng rằng Việt Nam "không phải là một nhân loại bề dưới, đủ chứng cho người Âu châu phải công nhận rằng cái lối văn chương, có tư tưởng, có tâm lý, có triết học, không phải là một lối văn chương riêng của các nước bên Âu - Mỹ, người Việt Nam cũng có cái cảm giác ấy, cũng có cái tư tưởng ấy".
Niềm tự hào Truyện Kiều là phản ứng của trí thức Việt, phản bác sứ mệnh khai hóa văn minh của phương Tây trên nền tảng tinh thần dân tộc, ái quốc, chống thực dân.
Đây là một khuynh hướng tư tưởng của tầng lớp trí thức Việt Nam đầu những năm 1920, sau gần hai thập niên từ khi Đông Kinh Nghĩa Thục bị người Pháp vùi dập (1907 - 1923). Chẳng phải ngẫu nhiên khi đọc diễn văn ở lễ kỷ niệm cụ Tiên Điền do Hội Khai Trí tổ chức ngày 8-9-1924, Thượng chi Phạm Quỳnh ngâm câu "Phong trần mài một lưỡi gươm / Những phường giá áo, túi cơm sá gì" mà tự hào dân tộc trào dâng: "Tôi tự phụ với người đời rằng: Truyện Kiều còn, tiếng ta còn - Tiếng ta còn, nước ta còn - Có gì mà lo, có gì mà sợ, có điều chi nữa mà ngờ".
Nhận thức được hiệu lực và tầm quan trọng của phim ảnh trong thời đại mới cùng với ý thức dân tộc kể trên, Nguyễn Văn Vĩnh muốn quảng bá Truyện Kiều rộng ra trong và ngoài nước bằng việc "dùng một cái cơ quan rất màu nhiệm, như là cái phép chớp bóng", cải biên nó thành tác phẩm điện ảnh. Việc ông đã dịch Truyện Kiều sang tiếng Pháp và khởi đăng trên Đông Dương tạp chí từ số 18, cũng như sự hiện diện của hiệu Indochine Film ở Hà Nội khi ấy như là cơ hội chín muồi để hiện thực hóa dự án này.
Việc hợp tác với Hội Indochine Film được Nguyễn Văn Vĩnh xem như sự gặp gỡ của những ý tưởng mà trong đó dự án dựng phim Kim Vân Kiều là do ông đề xuất.
Ông muốn thế giới công nhận khả năng tư duy, cảm nhận, thể nghiệm, diễn đạt được sâu sắc nhất những ngóc ngách phức tạp, ẩn kín trong tâm lý, tình cảm con người của người Việt.
Sách Kim Vân Kiều (in lần thứ 7, 1923) do Nguyễn Văn Vĩnh phiên âm quốc ngữ và chú dẫn
Tuy viết bằng tiếng Việt, loạt bài của Nguyễn Văn Vĩnh đã thu hút sự chú ý của bạn đọc người Pháp, đặc biệt là những người liên quan đến dự án phim Kim Vân Kiều.
Đầu năm 1924, tạp chí Thái Bình Dương cho đăng bức thư "Le Cinéma Indochinois" (Điện ảnh Đông Dương) của Hãng Phim và Điện ảnh Đông Dương (IFEC), cho biết đề án dựng phim đã được ấp ủ từ lâu:
"Ý tưởng quay phim, trên cơ sở thử nghiệm, một cuốn tiểu thuyết bản địa đầu tiên đã đến với chúng tôi vào năm ngoái, trong Triển lãm Thuộc địa. Chúng tôi không muốn là những người muốn hiệu chỉnh các bộ tiểu thuyết thuộc địa mà lại không biết lấy một chữ nào về đời sống thực tại của thuộc địa".
Ngày nay, chúng ta còn giữ lại được một tập sách nhỏ có tựa đề Kim Vân Kiều do Hội Indochine Films & Cinémas ấn hành sau khi bộ phim được công chiếu, trong đó một bài tựa ngắn bằng tiếng Việt, các bài viết còn lại đều bằng tiếng Pháp.
Dòng đầu của bài tựa đã viết rằng: "Nàng Thúy Kiều, con gái Vương Viên Ngoại, người ở Bắc Kinh nước Tàu". Thế nên sẽ không lạ gì khi phục trang của diễn viên trong phim là sự pha tạp, không thuần Việt - chi tiết đã bị các báo Trung Văn, Đông Pháp thời báo chê trách.
Sách cũng tiết lộ triết lý cải biên của những người làm phim: tác phẩm cải biên phải phát huy được thế mạnh của thể loại lựa cách dùng cho hợp nghề chớp bóng, không cần theo đúng như nguyên truyện, mà phải làm sao chạm vào nội tâm khán giả, khiến cho người ngồi xem động lòng mủi dạ, giọt lệ khôn cầm.
1. Chữ Hán và Chữ Nôm
Mặc dù trong giới khoa học lịch sử Việt Nam đang tồn tại những giả thiết về một thứ văn tự cổ đại nào đó của người Việt từ thời “các vua Hùng dựng nước” cách đây khoảng ba bốn ngàn năm, song nền văn hiến (ngữ văn) cổ điển Việt Nam còn lưu truyền đến ngày nay chỉ biết đến có chữ Hán và chữ Nôm trong lịch sử hình thành và phát triển của mình. Dĩ nhiên, khi cần có một cái nhìn toàn diện hơn về nền văn hiến chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã chung sống lâu đời trên dải đất hình chữ S hiện nay thì ngoài chữ Hán và chữ Nôm ra, còn cần phải kể đến một loạt các loại văn tự khác nữa như chữ Chăm ở phía Nam, chữ Thái ở phía Bắc, v.v… Song dẫu sao kho tàng văn hiến chữ Hán và chữ Nom vẫn là nên tảng của văn hiến cổ truyền Việt Nam.
Chữ Hán đã có mặt ở phương Nam khá sớm, có thể từ vài ba thế kỉ trước Công nguyên. Với sự thành lập nước Nam Việt (207-111 trước Công nguyên) của Triệu Đà, chữ Hán trở thành phương tiện hành chính cho cả người Hán và người Việt thời bấy giờ. Tuy nhiên, phải sang đầu Công nguyên, dưới thời nhà Hán, với sự tích cực truyền bá văn hoá Hán của các Thái thú như Tích Quang, Nhâm Diên và đặc biệt là Sĩ Nhiếp, chữ Hán mới thực sự trở thành công cụ trong tay người Việt. Tầng lớp trí thức và quan lại địa phương người Việt am hiểu và sử dụng được chữ Hán bắt đầu xuất hiện từ đó. Không phải ngẫu nhiên mà Sĩ Nhiếp (186-266) được người đời sau tôn xưng là “ Nam giao học tổ”. Tuy nhiên, những tư liệu về chữ Hán thời ấy và cả mấy thế kỷ tiếp sau đó trên đất Việt, đã không còn lưu truyền về sau. Văn bản chữ Hán có niên đại cổ nhất còn lại đến nay là bài văn bia Đại Tuỳ Cửu Chân quận Báo An đạo tràng chi bi văn, được phát hiện ở huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hoá, do Nguyễn Nhân Khí soạn năm Đại Nghiệp 14 (618) nhà Tuỳ (khổ bia 75cm x 150cm, chữ mòn mờ, hiện đặt tại Viện Bảo tàng lịch sử Việt Nam).
Tiếng Việt và tiếng Hán dù có thể bắt nguồn từ những ngữ hệ khác nhau (Hán – Tạng đối với tiếng Hán và Nam Á đối với tiếng Việt), song về mặt loại hình chúng lại rất gần nhau. Cả hai đều là ngôn ngữ thuộc loại đơn lập – âm tiết tính, mà đặc điểm chung cơ bản là mỗi âm tiết hầu như đều mang nghĩa, đều có thể được sử dụng như một từ mà không biến hình. Chính vì vậy mà chữ Hán với mô hình biểu âm biểu ý cho từng âm tiết một sẽ là hình ảnh lý tưởng cho văn tự tiếng Việt thời bấy giờ. Và trên đại thể, từ chữ vuông của tiếng Hán đến chữ vuông của tiếng Việt (chữ Nôm) là con đường không mấy chông gai. Bởi vậy, một văn bản chữ Nôm cho tiếng Việt thoạt nhìn qua thật khó phân biệt được nó với một văn bản chữ Hán.
Tuy nhiên, chữ Nôm đã không hình thành một các chóng vánh. Mới đầu chỉ là những chữ lẻ tẻ dùng để ghi tạm những tên đất, tên người, tên sản vật bản địa, xen lẫn vào các văn bản chữ Hán. Tình hình này có thể diễn ra ngay từ đầu Công nguyên, khi chữ Hán đã thực sự được người Việt sử dụng, không phải chỉ để đọc, mà còn để ghi chép, mô tả các sự kiện, con người và môi trường nước Nam. Nhưng từ đó để đi đến chỗ chế tác và định hình lên một hệ thống văn tự biểu âm biểu ý cho tiếng Việt còn phải trải qua một thời gian khá dài. Đây không hẳn là do phải trăn trở dai dẳng về các thao tác tạo chữ, mà điều tiên quyết là dân tộc phải được giải phóng, đất nước phải được độc lập, nhu cầu sử dụng chữ viết dân tộc phải trở thành bức xúc đối với đời sống văn hoá và tinh thần của người Việt. Cho nên phải chờ cho đến thời đại các triều Đinh, Lê, Lý, Trần (từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIV), khi nền độc lập đã được xây đắp vững chắc, ý thức dân tộc được khẳng định mạnh mẽ thì thứ chữ Nôm mới có đủ điều kiện trở thành một hệ thống văn tự hẳn hoi và các văn bản tiếng Việt bằng chữ Nôm mới dần dần xuất hiện. Theo sử sách ghi lại thì sự ra đời của chữ Nôm được đánh dấu bởi truyền thuyết về Hàn Thuyên (tức Nguyễn Thuyên) với bài văn Tế cá sấu và thơ phú bằng chữ Nôm của ông. Dưới thời Trần Nhân Tông (1279 – 1293) vào năm Thiệu Bảo 4 (Nhâm Ngọ, 1282) nhân có cá sấu vào sông Lô, nhà vua sai thượng thư Nguyễn Thuyên lập đàn và làm bài văn tế (bằng chữ Nôm?) ném xuống sông, cá sấu liền bỏ đi (theo Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ, Q.5). Bài thơ này và nhiều tác phẩm khác của ông nay đều bị thất truyền. Những tác phẩm chữ Nôm vào thời Trần còn truyền lại đến nay là mấy bài ca ngợi cảnh Thiền của nhà vua Trần Nhân Tông và nhà sư Huyền Quang (Cư trần lạc đạo phú, Đá thú lâm tuyền thành đạo ca, Vịnh Hoa Yên tự phú) trong sách Thiền tông bản hạnh (bản khắc in sớm nhất còn lại là vào năm Cảnh Hưng 6, tức 1745).
Từ đó về sau, cho đến những thập niên đầu thế kỷ XX, trong đời sống xã hội Việt Nam, chữ Hán và chữ Nôm vẫn luôn luôn sóng đôi tồn tại trong sự phân biệt và phối hợp sử dụng một cách hợp lý và có hiệu quả. Vai trò của chữ Hán và chữ Nôm ở Việt Nam trong quá khứ có thể được hình dung một cách khái quát như sau:
2. Vai trò của chữ Hán
Trong suốt hơn một ngàn năm Bắc thuộc, chữ Hán chiếm địa vị độc tôn ở Việt Nam. Theo sử sách ghi lại, từ thế kỷ XII đến thế kỷ IX, có một loạt trí thức người Việt cầm bút lông viết ngữ lục hoặc văn phú bằng chữ Hán. Một nhân vật tiêu biểu trong số họ là Khương Công Phụ (thế kỷ VIII), người Ái Châu (Thanh Hoá), từng sang thi Tiến sĩ ở Trung Hoa và đã đỗ đầu khoá với một bài phú và một bài văn sách chữ Hán (theo Toàn Đường văn, Q.446). Tuy nhiên, các văn bản chữ Hán của người Việt ở thời kỳ này lưu lại cho đến nay rất ít ỏi, mà truyền bản đều ở nước ngoài.
Điều đáng được lưu ý là chính vào thời kỳ các dân tộc Việt Nam giành được quyền độc lập tự chủ, vào lúc họ bắt tay xây dựng chính quyền của mình theo hình mẫu nhà nước phong kiến Trung Hoa thì chữ Hán mới được người Việt chủ động sử dụng một cách phổ biến và có hiệu quả trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội Việt Nam. Vai trò, chức năng của chữ Hán từ đó cho đến mãi về sau này được thể hiện như sau:
(1)Trước hết, trong lĩnh vực hành chính, các triều đại phong kiến Việt Nam, từ nhà Đinh (thế kỷ X) đến nhà Nguyễn (thế kỷ XX), luôn luôn sử dụng chữ Hán trong các giấy tờ chính thức của các cấp chính quyền. Từ chiếu chỉ, đạo dụ, sắc phong, cáo hịch… của triều đình ban ra cho đến tấu, biểu, đơn từ, v.v… của cấp dưới và dân chúng trình lên, hết thảy đều viết bằng chữ Hán. Người dân thường không biết chữ nên nếu có việc đều phải nhờ cậy hoặc thuê mướn người có học viết đơn từ hộ. Thảng hoặc lắm mới có một bức chỉ dụ, thư từ của vua (như trường hợp vua Quang Trung viết thư cho Nguyễn Thiếp, và phê vào đơn của các nho sĩ Bắc Hà) hoặc đơn từ, tờ tâu của dân chúng viết bằng chữ Nôm thuần tuý. Tiêu biểu cho các văn bản hành chính bằng chữ Hán là Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi (viết thay Lê Lợi), bộ Châu bản triều Nguyễn, tập hợp hơn 50.000 văn bản từ thời Gia Long đến thời Bảo Đại (hiện được lưu giữ tập trung tại Cục Lưu trữ Trung ương, Hà Nội).
(2) Cùng với hành chính là giáo dục và thi cử, trong đó từ sách vở kinh điển thánh hiền đạo Nho cho đến các loại văn bài trường ốc, đều bằng chữ Hán. Việc đào tạo nhân tài cho đất nước theo con đường Nho học được thực hiện một cách chủ động từ thời nhà Lý. Năm 1070, thời Lý Thánh Tông (1054 -1072) cho xây Văn Miếu – Quốc tử giám ở Thăng Long làm nơi học tập Hán văn cho hoàng thái tử. Và năm 1075 dưới thời Lý Nhân Tông (1072 – 1128), việc tuyển lựa hiền tài theo Nho học lần đầu tiên ở Việt Nam được tổ chức. Từ đó cho đến năm 1919 là năm mở khoá thi Hội cuối cùng (ở Huế), cả nước có tất cả 2.898 người đỗ đại khoa và đây là lực lượng trí thức chủ yếu gây dựng nền văn hiến cổ điển Việt Nam qua nhiều thế kỷ.
(3) Văn hoá thành văn (bao gồm các tác phẩm về lịch sử, địa lý, văn học, tôn giáo, tín ngưỡng, v.v…) của Việt Nam trong quá khứ được hình thành trước hết từ chất liệu chữ Hán. Bộ Đại Việt sử ký do sử thần Lê Văn Hưu hoàn thành năm 1272 dưới thời Trần Thánh Tông (1258 – 1278) là bộ chính sử đầu tiên ở Việt Nam, gồm 30 quyển, nay đã thất truyền, nhưng nó đã được kế thừa và phát triển qua các bộ chính sử có quy mô lớn hơn vào các triều đại sau như: Đại Việt sử ký toàn thư khắc ván in năm Chính Hoà 18 (1697) thời nhà Lê, Đại Việt sử ký tiền biền khắc in xong năm Cảnh Thịnh 8 (1800) thời Tây Sơn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục hoàn thành năm Tự Đức 34 (1881) thời nhà Nguyễn, v.v… Tương tự vậy, thời Lý có bộ luật Hình thư ban hành năm 1042, thời Trần có bộ Quốc triều hình luật ban hành năm 1244, nhưng đều thất truyền. Nay còn lại các bộ luật nổi tiếng như Quốc triều hình luật ban hành năm 1489 thời Lê Thánh Tông (còn gọi là Luật Hồng Đức), Hoàng triều luật lệ của nhà Nguyễn ban hành năm 1815 (còn gọi là Luật Gia Long), v.v… Nhiều công trình khảo cứu, ghi chép và mô tả thực tế con người và đất nước Việt Nam đã lần lượt xuất hiện dưới ngọn bút Hán văn thành thục của Lê Hữu Trác (1724 -1791), Lê Quý Đôn (1726 – 1784), Ngô Thì Sĩ (1726 – 1780), Ngô Thì Nhậm (1782 – 1840), v.v… Với chữ Hán, văn nhân nước Việt cũng đã tạo nên một nền văn chương có đủ các thể loại, đặc biệt là thơ phú và truyện ký. Về thơ thì hầu như không một bậc Nho học và Phật học nào của nước ta là không làm thơ chữ Hán. Riêng về truyện ký, đáng kể nhất là tập Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (giữa thế kỷ XVI) gồm 20 truyện ngắn lấy đề tài từ xã hội Việt Nam thời bấy giờ; bộ tiểu thuyết lịch sử Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái phản ánh thời kỳ tao loạn trong lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, và một loạt truyện ký, tiểu thuyết Hán văn khác, đặc biệt là của Phan Bội Châu (1867 – 1940), v.v… Không chỉ với Nho gia, chữ Hán cũng là phương tiện quan trọng để truyền bá kinh sách đạo Lão, đạo Phật ở Việt Nam. Chữ Hán đã thâm nhập khá sâu vào các đền thờ, miếu mạo, chùa chiền và cả các di tích, danh lam… Đó là thứ văn tự đầy vẻ trang nghiêm, thích hợp cho việc làm văn bia để ghi tạc công đức và thờ cúng người xưa, khắc lên hoành phi, câu đối để trang trí nơi công cộng và cả tư gia. Dĩ nhiên, ở những không gian và môi trường văn hoá này, người Việt cũng sử dụng cả chữ Nôm.
3. Vai trò của chữ Nôm
Khi chữ Nôm ra đời và dần dần được hoàn thiện một cách tự phát ở người sử dụng (mà đồng thời cũng là người sáng tạo) thì chữ Hán đã có một lịch sử “cư trú” lâu đời và phục vụ đắc lực cho xã hội người Việt trong nhiều lĩnh vực của đời sống tinh thần, đặc biệt là trong công việc hành chính và đào tạo nhân tài cho đất nước. Đây không hẳn là do uy tín của bản thân chữ Hán, mà là do ưu thế của một nền văn hoá Trung Hoa có sức lan toả trong khu vực thời trung đại thông qua chữ Hán mà người Việt cũng như nhiều dân tộc khác đã từ bị động đến chủ động tiếp nhận. Cho nên, sẽ là không thoả đáng nếu đặt ra cho chữ Nôm nhiệm vụ phải giành giật lại cho mình những vai trò mà chữ Hán từ lâu đã nắm giữ một cách xứng đáng. Trong lịch sử Việt Nam cũng đã từng có một vài vị vua quan tâm đến chữ Nôm, muốn sử dụng nó trong giao dịch hành chính (như Hồ Quý Ly, Nguyễn Huệ) và có cả những trí thức muốn cải cách văn tự, dùng chữ Nôm thay cho chữ Hán (như Nguyễn Trường Tộ trong Tế cấp bát điều dâng vua Tự Đức). Song, tất cả những ý tưởng và thử nghiệm rất đáng trân trọng đó đều chỉ thoảng qua và chưa kịp để lại một dấu ấn gì rõ rệt cho chữ Nôm. Vậy thì, trong những bối cảnh như thế, chữ Nôm đã “thi thố” khả năng của mình ra sao để có thể cũng với chữ Hán góp phần xây dựng nền văn hiến cổ điển Việt Nam?
(1) Trước hết, có những lĩnh vực mà chữ Hán tỏ ra yếu thế, thậm chí là bất lực và phải nhường chỗ cho chữ Nôm thực hiện vai trò của mình. Ít nhất có ba lĩnh vực sau đây để chữ Nôm phát huy khả năng của mình một cách tối ưu:
(a) Người Việt, cũng như nhiều dân tộc khác, từ lâu trước khi có chữ viết, họ đã có một kho tàng văn hoá truyền miệng phong phú và đa dạng. Đó là những câu chuyện kể, những lời ca tiếng hát, những câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ, câu đố, v.v… lưu truyền trong dân gian. Rõ ràng là để ghi chép, sưu tập, chỉnh lý kho tàng văn hoá truyền miệng bằng tiếng Việt này, không gì thích hợp và trung thực hơn là trực tiếp dùng chữ Nôm (chứ không phải dịch sang Hán văn). Và trên thực tế cũng đã có không ít những sưu tập như thế được thực hiện bằng chữ Nôm, như sách Lý hạng ca dao chép 256 bài ca dao; sách Nam quốc phương ngôn tục ngữ bị lục gồm 27 mục chép các bài ca dao, tục ngữ, câu đố; sách Nam ca tân truyện ghi lại các bài hát cổ theo các điệu ca ở Huế v.v… Có thể kể vào đây một loạt các vở tuồng cổ và chèo cổ như Văn Duyên diễn hí, Trương Viên diễn ca, Lưu Bình trò, v.v…
(b) Chữ Nôm được viết dưới hình thức văn vần là một cách thích hợp và hiệu quả nhất cho việc phổ cập, truyền bá các tri thức thuộc mọi lĩnh vực khác nhau. Trước hết, đó là những bộ sách diễn ca lịch sử như Việt sử diễn âm (thế kỷ XVI), Thiên Nam minh giám (nửa đầu thế kỷ XVII), Thiên Nam ngữ lục (nửa cuối thế kỷ XVII), Đại Nam quốc sử diễn ca (thế kỷ XIX) v.v… Quả thật, đa số dân chúng không biết chữ Hán và chữ Nôm, nhưng nhờ có những tác phẩm văn vần chữ Nôm như vậy mà họ được nghe đọc, nhiều lần thì nhập tâm mà thuộc lòng từng đoạn, có khi cả tác phẩm dài hàng ngàn câu. Cũng tương tự như vậy đối với các tác phẩm chữ Nôm “diễn ca” hoặc “diễn âm”: về luật lệ như Hoàng Việt luật lệ toát yếu diễn ca, về y học như Chẩn đậu diễn ca, v.v…
(c) Vai trò nổi bật của chữ Nôm được thể hiện trong các sáng tác văn chương. Mặc dù văn nhân mọi thời đều đã dùng chữ Hán để làm thơ, viết truyện, song chỉ với chữ Nôm, người Việt mới có điều kiện để làm nên những tác phẩm văn học bất hủ của dân tộc. Tập thơ Nôm có niên đại sớm nhất còn lại đến nay là Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi (1380 – 1442), sau đó là Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) với Bạch Vân am quốc ngữ thi. Điều đặc biệt là, nếu như với chữ Hán, ta đã có những tập truyện ngắn và tiểu thuyết văn xuôi, thì với chữ Nôm, ta hầu như lúc nào cũng có thể bắt gặp văn vần đủ các thể loại. Nổi bật và có nhiều thành tựu nhất là thơ ca trường thiên theo thể lục bát và song thất lục bát. Chính với hai thể thơ này mà vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX văn học cổ điển Việt Nam đạt tới những đỉnh cao mà thế giới đã biết đến: đó là Chinh phụ ngâm khúc của Đoàn Thị Điểm (1705 – 1748), Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) của Nguyễn Du (1766 – 1820) . Với thơ ca chữ Nôm, ta còn gặp các tên tuổi sáng tác khác nữa từ thế kỷ XIII đến đầu thế kỷ XX như Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Gia Thiều, Phạm Thái, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, v.v… Chính nhờ họ mà tiếng Việt đã được trau giồi trên cơ sở hấp thu hai nguồn ngữ liệu: ngữ liệu chữ Hán và ngữ liệu văn hoá dân gian Việt để trở thành một nền văn chương trong sáng và giàu sức biểu hiện.
(2) Mặt khác, chữ Nôm không phải bao giờ cũng “độc lập tác chiến”, mà đã biết phối hợp cùng chữ Hán để tạo nên các tác phẩm cụ thể, hộ trợ cùng nhau để sáng tạo và lưu truyền văn hoá. Có thể nhận thấy điều này qua những hiện tượng sau đây:
(a) Không kể những trường hợp một số chữ Nôm lẻ tẻ có thể xuất hiện bất kỳ trong các tác phẩm Hán văn bác học khi cần thiết thì trong dân gian chữ Nôm hầu như thường xuyên được dùng xen kẽ với chữ Hán để ghi chép sinh hoạt làng xóm, hương ước, địa chí, thần phả, tộc phả, sổ sách, đơn từ, khế ước, v.v… Bên cạnh chữ Hán, chữ Nôm cũng xuất hiện trong các câu đối, hoành phi, bia đá, chuông đồng ở đình chùa miếu mạo… Còn có cả một thể loại thơ ca rất được lớp nho sĩ bình dân ưa chuộng là hát nói (trong ca trù), trong đó giữa những lời hát thuần chữ Nôm tiếng Việt thường xen kẽ mấy câu đặc chữ Hán.
(b) Chữ Nôm còn được sử dụng một cách đắc lực vào việc phiên chuyển văn bản và phổ biến văn hoá thành văn. Chẳng hạn như sau:
Các kinh sách cổ điển của đạo nho, đạo Lão, đạo Phật từ Hán văn có thể được chuyển dịch sang chữ Nôm theo hai cách: Hoặc là lược thuật đại ý và chuyển thành văn vần chữ Nôm để dễ phổ cập (như sách Luận ngữ thích nghĩa ca diễn Nôm thể lục bát 20 thiên sách Luận ngữ); hoặc là trực dịch từng câu Hán văn sang câu chữ Nôm (như sách Thi kinh giải âm dịch nghĩa toàn bộ hơn 300 bài thơ trong Thi kinh sang chữ Nôm). Một số văn bản từ các ngôn ngữ phương Tây đôi khi cũng được lược dịch sang văn xuôi chữ Nôm, như bộ Các Thánh truyện (1646) do Jeronijimo Maijorica chủ biên (12 tập, hiện còn 11 tập, 1.672 trang).
Tương tự như vậy, một số tác phẩm văn xuôi chữ Hán của Việt Nam cũng được người đời sau phiên chuyển sang văn xuôi chữ Nôm theo kiểu trực dịch từng câu. Tiêu biểu là bản “giải âm” tương truyền của Nguyễn Thế Nghi (cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII) cho bộ Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (giữ thế kỷ XVI) và phần dịch chữ Nôm trong tác phẩm Cổ Châu Phật bản hạnh ngữ lục (thế kỷ XVI) mà bản khắc hiện còn lưu trữ tại chùa Dâu.
Có một loạt các sách công cụ, trong đó chữ Nôm được dùng để giải nghĩa các từ ngữ chữ Hán, được soạn ra theo các thể văn vần. Sử dụng các bộ sách này, người ta đồng thời học được chữ Hán lẫn chữ Nôm. Thuộc vào loại này có thể kể đến các sách như Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa (thế kỷ XIV và XVII), Tam thiên tự giải âm của Ngô Thì Sĩ (thế kỷ XVIII), Nhật dụng thường đàm của Phạm Đình Hổ (thế kỷ XVIII), Tự học giải nghĩa ca thời Tự Đức (thế kỷ XIX), Đại Nam quốc ngữ của Nguyễn Văn San (thế kỷ XIX), v.v…
4. Vài nhận xét bổ sung
Ở đây, cần phải lưu ý thêm một điều là chữ Hán và chữ Nôm ở Việt Nam, dù được sử dụng chuyên biệt hay trong sự phối hợp với nhau, đều có thể được định hình như nhau bằng đủ các phương thức thủ công cổ truyền. Các phương thức định hình chủ yếu là: (a) Viết tay bằng bút lông lên giấy, vải, lụa, hoặc bất kỳ một mặt phẳng nào có thể được; (b) Dùng dao, đục… khắc lên các vật rắn như gỗ, đá, đồng… để tạo thành các bản văn khắc (bia, chuông, biển, v.v…); (c) Dùng gỗ khắc chữ ngược lên ván gỗ tạo nên các khuôn in để in ấn hàng loạt trên giấy. Chính nhờ phương thức in ấn thủ công này mà các tác phẩm chữ Hán và chữ Nôm của người Việt được nhân bản và lưu truyền rộng rãi. Điều này kích thích sự phát triển nền văn hiến chữ Hán và chữ Nôm trong quá khứ, kể từ thời trung đại về sau. Cho đến những năm đầu thế kỷ XX, nhiều nhà sách vẫn tổ chức khắc ván in đi in lại nhiều tác phẩm Hán-Nôm và bán ra rất chạy trên thị trường sách đương thời.
Cũng cần nhấn mạnh thêm rằng, ngay từ thế kỷ XI trở đi, khi người Việt chủ động sử dụng chữ Hán cho công việc của mình, họ bắt đầu đọc chữ Hán theo cách phát âm cuối Đường đầu Tống và dần dần thoát ly khỏi cách phát âm chữ Hán ở quê hương của nó, ngả dần theo sự chi phối ít nhiều của ngữ âm tiếng Việt. Đó là cách phát âm Hán – Việt. Với cách phát âm này, tiếng Hán và cả chữ Hán trở nên rất quen thuộc với người Việt, cảm giác “ngoại ngữ” đối với nó đã mờ nhạt dần. Bởi vậy, một điều đương nhiên là chữ Nôm ra đời không phải để tẩy chay chữ Hán, mà chỉ là để cùng với chữ Hán đảm nhiệm những phần việc cần thiết của mình đối với đời sống xã hội người Việt Nam, như những gì đã được trình bày ở trên.
Từ đầu thế kỷ XX trở lại đây, chữ Việt phiên âm theo tự mẫu La-tinh (quen gọi là chữ Quốc ngữ), đã dần dần thay thế vai trò của chữ Hán và chữ Nôm trong hầu hết các chức năng xã hội của chúng. Tuy nhiên, với bề dày của nền văn hiến Hán Nôm, chức năng thể hiện và chuyển tải văn hoá cổ truyền của chữ Hán và chữ Nôm sẽ không bao giờ bị xoá nhoà. Trong lòng người dân Việt Nam hôm nay, chữ Hán và chữ Nôm vẫn luôn luôn là chiếc cầu nối thiêng liêng giữ quá khứ với hiện tại và tương lai trong đời sống văn hoá của tất cả họ, kể cả tầng lớp trí thức, lẫn người dân bình thường.
Tài liệu tham khảo
Đào Duy Anh. Chữ Nôm – nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1975.
Nguyễn Tài Cẩn. Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, NXB Khoa học xã hội, 1979.
Phan Huy Chú. Lịch triều hiến chương loạt chí. Sách chữ Hán chép tay, 49 quyển. Kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm. (A. 1551/ 1-8)
Trần Văn Giáp. Tìm hiểu kho sách Hán Nôm (Thư tịch chí Việt Nam). Tập I, NXB Văn hoá, Hà Nội, 1984; Tập II, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990.
Nguyễn Quang Hồng (chủ biên). Văn khắc Hán Nôm Việt Nam (Tuyển chọn và lược thuật). NXB Khoa học xã hội, 1992.
Nguyễn Quang Hồng. “Di sản Hán Nôm nhìn từ góc độ của khoa học ngữ văn”. Tạp chí Hán Nôm, 1987, N.2.
Trần Nghĩa, Francois Gros (chủ biên). Di sản Hán Nôm Việt Nam (Thư mục đề yếu). Ba tập. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993.
Ngô Đức Thọ (chủ biên). Các nhà khoa bảng Việt Nam (1075 – 1919). NXB Văn học, Hà Nội, 1993.
Bài viết này của GS. TSKH. Nguyễn Quang Hồng là tham luận trình bày tại Hội thảo kỷ niệm 50 năm thành lập Hội văn hoá chữ Hán ở Nhật Bản, Tokyo, 3/1999. Đăng tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, 1999, N.5 (43). Chúng tôi đã được sự đồng ý của tác giản để đăng lại bài viết này trên webiste của Digitizing Việt Nam
Một nhu cầu cấp thiết đang đặt ra cho những người làm công tác khoa học trong lĩnh vực Hán Nôm là phải đổi mới tư duy lý luận, nâng cao nhận thức lý thuyết về đối tượng quản lý và nghiên cứu của mình. Có như vậy mới có thể xây dựng được cơ sở khoa học cho việc định hướng, xác lập và tổ chức các hoạt động khoa học trên những quy mô rộng lớn, cũng như trên từng đề tài và công việc cụ thể.
Bước đầu đề cập vấn đề này, chúng tôi tạm chưa đi sâu vào mọi khía cạnh, mọi chi tiết của nó, mà chủ yếu xuất phát từ phương pháp luận khoa học ngữ văn, kết hợp với tình hình thực tế có thể quan sát được ở nước ta, cố gắng xác lập những cách nhìn khái quát và cần thiết đối với di sản Hán Nôm, góp phần hình dung và định hướng các hoạt động khoa học trên tư liệu Hán Nôm, một bộ phận quan trọng trong toàn bộ các di sản ngữ văn của dân tộc.
1. Di sản Hán Nôm trong toàn bộ di sản ngữ văn của dân tộc Việt Nam
Di sản văn hoá nói chung của một dân tộc, một đất nước, có thể bao gồm nhiều thành phần, nhiều kiểu loại khác nhau, từ văn hoá vật chất đến văn hoá tinh thần, văn hoá vật thể đến văn hoá phi vật thể. Trong kho tàng những di sản văn hoá tinh thần phi vật thể và có thể cả vật thể của một dân tộc thì chiếm một vị trí quan trọng là những di sản mang tính chất ngữ văn.
Ngữ văn, theo cách hiểu của khoa học ngày nay, là toàn bộ những phát ngôn do con người tạo ra bằng phương tiện ngôn ngữ. Mỗi phát ngôn mà được hoàn chỉnh và định hình bằng cách nào đó được gọi là một tác phẩm ngôn từ (gọi tắt là ngôn từ). Tuỳ theo cách thức định hình vật chất, ta có thể phân chia các ngôn từ thành nhiều loại hình khác nhau: ngôn từ nói miệng, ngôn từ viết tay, ngôn từ in ấn, v.v… (1)
Khi một dân tộc nào đó chưa đặt ra được chữ viết cho ngôn ngữ của mình, mà cũng chưa biết mượn dùng ngôn ngữ văn tự của một dân tộc nào khác thì mọi tác phẩm ngôn từ của họ chỉ là những lời nói miệng. Và trong tình trạng đó, di sản ngữ văn của họ chỉ có thể là những ngôn từ truyền miệng mà thôi (như: thành ngữ, tục ngữ, ca dao, vè, truyện kể, v.v…). Nhưng một khi họ đã biết sử dụng chữ viết (bất kể là tạo ra hay vay mượn của dân tộc khác) để viết nên những ngôn từ thành văn – tức là những văn bản (hiểu theo nghĩa gốc của từ này) thì nền văn hoá tinh thần của dân tộc đó bắt đầu bước vào một giai đoạn mới, giai đoạn có văn hiến (cũng hiểu theo nghĩa gốc của từ này).
Cũng cần lưu ý rằng, các tác phẩm ngôn từ thuộc di sản ngữ văn của một dân tộc là truyền miệng hay thành văn, có thể là được tạo ra và tồn tại một cách tự thân (như: tục ngữ, câu đố, ca dao, sách vở, công văn, thư từ, v.v…) nhưng cũng có thể là kèm theo cùng các loại hình di sản văn hoá khác (chẳng hạn: lời ca trong dân gian, các bài văn, bài thơ, câu đối, khắc ở bia ở chuông, tháp, đền chùa, lâu đài, v.v…)
Từ sự hình dung trên đây về di sản ngữ văn nói chung, nhìn vào thực tiễn hoạt động ngôn ngữ - văn tự ở Việt Nam, ta dễ dàng nhận thấy rằng, trong toàn bộ di sản ngữ văn nước ta, có mặt đầy đủ tất cả các loại hình ngôn tử kể trên, bao gồm những kho tàng ngôn từ truyền miệng dân gian khá phong phú và đa dạng, cùng với kho tàng các văn bản chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ và nhiều thứ chữ khác của các dân tộc, được viết tay và nhân bản bằng phương pháp thủ công (chủ yếu là khắc, in mộc bản), do nhiều thế hệ người các dân tộc Việt Nam tạo ra và lưu truyền đến ngày nay.
Chỉ xét về mặt loại hình ngôn ngữ - chữ viết thì các di sản ngôn từ thành văn của nước ta có thể phân biệt với nhau theo hai bước như sau:
- Ở bước thứ nhất ta có: (A) – các văn bản được viết vằng văn tự thuộc hệ chữ cái La-tinh, phân biệt với (B) – các văn bản không thuộc hệ chữ cái La-tinh.
- Ở bước thứ hai ta có: (B1) – các văn bản được tạo ra từ các văn tự theo hệ chữ vuông (chữ Hán, chữ Nôm của người Việt và các dân tộc anh em như Tày, Mèo, Dao) phân biệt với (B2) – các văn bản không thuộc hệ chữ La-tinh nhưng cũng không thuộc hệ chữ vuông Hán (mà chủ yếu là thuộc hệ chữ Phạn như văn tự cổ của các dân tộc Thái, Chăm, Khmer, v.v…).
Dĩ nhiên là không loại trừ khả năng có những tác phẩm trong đó người ta đã sử dụng đồng thời mấy thứ ngôn ngữ - văn tự khác nhau. Chẳng hạn: trong kho sách của Viên Nghiên cứu Hán Nôm ở Hà Nội hiện nay, có không ít tác phẩm thuộc loại “giải âm”, “diễn nghĩa” từ Hán sang Nôm và cả chữ Quốc ngữ, chữ Pháp, v.v… Đối với các văn bản loại này, phải tuỳ theo mức độ và tính chất của sự phối hợp hay xen kẽ thứ chữ này với thứ chữ khác mà tiến hành phân biệt, xử lý cụ thể.
Sự phân biệt các di sản ngôn từ thành văn của nước ta theo tiêu chí loại hình ngôn ngữ - văn tự như trên đây tuyệt nhiên không phải chỉ là một thao tác thuần tuý hình thức. Thực ra trong đó có phản ánh những nhân tố lịch sử - văn hoá rất quan trọng. Ở bước thứ nhất, khi phân biệt các văn bản thuộc hệ chữ cái La-tinh (A) với những văn bản còn lại không thuộc hệ chữ này (B), chúng ta cũng đồng thời phân biệt trên đại thể một đằng là các văn bản xuất hiện từ thời cận đại về sau trong quan hệ tiếp xúc với văn minh phương Tây (châu Âu); và đằng khác là những văn bản ra đời trong quan hệ tiếp xúc với văn minh phương Đông (châu Á) vốn gắn liền với lịch sử lâu dài của dân tộc Việt Nam từ thời cổ đại, trung đại cho đến những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XX. Ở bước thứ hai, khi phân biệt các văn bản thuộc hệ chữ vuông Hán (B1) với những văn bản phi La-tinh khác mà không thuộc hệ chữ vuông (B2), chúng ta cũng đồng thời tìm thấy mối liên hệ giữa sự phân biệt theo hệ chữ viết như thế với hai nền văn hiến khác nhau mà các dân tộc Việt Nam đã tiếp thu: văn hiến Trung Hoa (đối với B1) và văn hiến Ấn Độ (đối với B2) (2) .
Đến đây thì sự hình dung lý thuyết xét từ góc độ ngữ văn học đối với Di sản Hán Nôm hầu như đã được rõ nét. Đó là những tác phẩm ngôn từ thành văn do người Việt Nam tạo ra hoặc tham gia sáng tạo, chủ yếu dựa vào ngôn ngữ - văn tự Hán cổ và ngôn ngữ - văn tự của các dân tộc Việt Nam thuộc hệ chữ vuông (các loại chữ Nôm) được định hình và nhân bản bằng các phương tiện thủ công (viết tay, chạm khắc, khắc in mộc bản, v.v…), làm thành một bộ phận quan trọng trong toàn bộ di sản thành văn của các dân tộc Việt Nam.
Đối với với kho tư liệu thực tế các văn bản Hán Nôm mà chúng ta hiện có thì sự hình dung lý thuyết nêu ra trên đây là phù hợp và bao quát được hầu hết các hiện tượng vẫn được coi là di sản Hán Nôm. Dĩ nhiên là có thể gặp một số trường hợp ngoại lệ mà ở đó sự định hình và lưu truyền các văn bản có mang những “số phận” đặc biệt (3).
Di sản Hán Nôm trước hết vẫn là một phạm trù văn hoá – lịch sử. Cho nên không phải bất kỳ văn bản hay hiện tượng chữ Hán, chữ Nôm nào cũng đều được coi là di sản Hán Nôm. Giới thuyết vừa nêu ra trên đây về di sản Hán Nôm đã gạt ra ngoài phạm vi của nó một ít những hiện tượng Hán Nôm, mà chủ yếu muốn nói đến ở đây là các văn bản chữ Hán, chữ Nôm do người Việt Nam ngày nay viết ra trong những trường hợp đặc biệt nào đó (và có thể cả những văn bản Hán Nôm do người nước ngoài viết về Việt Nam), mặc dù xét trên quan điểm thuần tuý ngữ văn học thì những tư liệu Hán Nôm này cũng không kèm phần giá trị. Cho nên, khi có sự cần thiết, khái niệm “Di sản Hán Nôm” phải được phân biệt với tất cả các hiện tượng Hán Nôm nói chung. Song, sự phân biệt này không nhằm mục đích gạt bỏ cái gì ra khỏi phạm vi quản lý và nghiên cứu của chúng ta, mà chỉ giúp đỡ cho việc xử lý cụ thể các tư liệu Hán Nôm được thoả đáng hơn trong công tác sưu tầm và nghiên cứu của chúng ta.
2. Ngữ văn học Hán Nôm và ngữ văn học cổ điện Việt Nam
Di sản Hán Nôm, như cách chúng ta hình dung trên đây, là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ các di sản ngữ văn của dân tộc Việt Nam. Tiếp xúc với di sản Hán Nôm, chúng ta đồng thời cũng tiếp xúc với trí tuệ và tấm lòng của bao thế hệ cha ông trên hầu khắp mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nước ta trước đây. Bởi vậy, di sản Hán Nôm và tư liệu Hán Nôm nói chung cùng một lúc có thể làm khách thể nghiên cứu cho nhiều ngành khoa học khác nhau. Qua tư liệu Hán Nôm, các nhà nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực như triết học, sử học, dân tộc học, xã hội học, địa lý học, nông học, sinh học, y học, toán học, v.v… có thể tìm thấy những thông tin cần thiết, nhiều cứ liệu quan trọng và những dối tượng thích hợp cho công việc nghiên cứu của mình. Nhưng trước hết và đồng thời với sự quan tâm của tất cả các nhà chuyên môn thuộc những lĩnh vực khoa học khác nhau như thế (từ khoa học xã hội đến khoa học tự nhiên), các tư liệu Hán Nôm cần phải được kinh qua bàn tay xử lý khoa học của những nhà nghiên cứu lĩnh vực ngữ văn học cổ điển Việt Nam.
Ngữ văn học – theo cách hiểu hiện nay mà chũng tôi lĩnh hội được – là ngành khoa học nghiên cứu mọi hiện tượng ngôn từ trong tất cả các hình thái biểu hiện của chúng, và trong mốn liên quan biện chứng – lịch sử giữa các yếu tố hình thức với nội dung của tác phẩm ngôn từ (4).
Ở đây, chúng tôi không đi sâu thuyết minh mọi khía cạnh của định nghĩa này mà chỉ nhấn mạnh một vài điểm mấu chốt sau đây: Thứ nhất, cần tránh xu hướng chỉ coi trọng tác phẩm văn chương: khoa ngữ văn học quan tâm đến mọi hình thái ngôn từ, kể cả ngôn từ khoa học, công văn, thư từ, sổ sách, tin tức, v.v… Thứ hai, khoa học ngữ văn nói chung không đi sâu vào khai thác mọi giá trị về nội dung chuyên biệt do ngôn ngữ truyền tải (vì đây là nhiệm vụ của các ngành khoa học và chuyên môn khác nhau) mà chủ yếu quan tâm đến mặt ngôn ngữ - văn tự của ngôn từ, bao gồm việc giải thuyết các nội dung ngữ nghĩa trong mối liên hệ biện chứng và lịch sử với các yếu tố hình thức (bao gồm ngôn ngữ, chữ viết và các phương thức định hình) của nó.
Đôi khi người ta hình dung một cách đơn giản rằng: ngữ văn học là cách gọi tắt hay là sự tổng hợp hai ngành ngôn ngữ học và văn học. Thực ra, nội dung mà thuật ngữ ngữ văn học (tiếng Hy Lạp: philologié) bao hàm là rất xê dịch trong lịch sử phát triển khoa học từ cổ đại đến hiện đại. Chỉ từ cuối thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX, người ta mới có xu hướng gắn liền thuật ngữ này không những với ngôn ngữ học (như các nhà ngữ văn học thế kỷ XIX đã hình dung) mà còn cả với khoa văn học. Cần lưu ý rằng, khoa văn học sở dĩ vẫn được xếp vào phạm vị của ngữ văn học không phải là vì nó quan tâm đến tính nghệ thuật, đến nội dung tư tưởng – thẩm mỹ của tác phẩm (về mặt này hẳn là phải xếp văn học vào lĩnh vực các khoa học về nghệ thuật), mà chủ yếu là vì nó cần phải quan tâm trước hết đến mặt ngôn ngữ - văn tự của tác phẩm, đến cái chất liệu bằng tiếng bằng chữ qua bàn tay nhào luyện của tác giả - nhà nghệ sĩ ngôn từ. Chính ở phương diện thứ hai này, văn học mới có mối liên quan chặt chẽ với ngôn ngữ học, là bộ môn khoa học làm nên phần cốt lõi cho ngữ văn học nói chung. Thế nhưng, nếu như văn học lấy các tác phẩm ngôn từ nghệ thuật và tính thẩm mỹ của chúng làm đối tượng khảo sát và miêu tả chính, thì ngôn ngữ học cho đến nay vẫn quan tâm trước hết đến các đơn vị ngôn ngữ và hệ thống của chúng với tư cách là phượng tiện thể hiện tư duy và giao tiếp của con người trong mọi lĩnh vực hoạt động xã hội. Mặc dù ngôn ngữ học (và liên quan đến nó là văn tự học) có vị trí rất quan trọng như vậy nhưng nó vẫn không thay thế được và không đảm nhiệm được hết mọi nghiệm vụ đặt ra cho các chuyên ngành ngữ văn học khác như văn bản học, thư thịch học, v.v… là những chuyên ngành trong đó lấy bản thân các văn bản, các tác phẩm ngôn từ thuộc mọi lĩnh vực làm đối tượng chính.
Từ cách nhìn nhận chung trên đây về khoa học ngữ văn, hãy trở lại với di sản Hán Nôm của chúng ta. Đó thật sự là một khách thể nghiên cứu vô cùng phong phú và đa dạng cho ngữ văn học cổ điển nước ta (5). Xuất phát từ những yêu cầu của cách mạng tư tưởng – văn hoá và cách mạng khoa học - kỹ thuật nước ta, tuân theo những quy luật khách quan trong sự phát triển của khoa học xã hội, từ kho tàng tư liệu Hán Nôm, chúng ta có thể xác lập một loạt các chuyên ngành ngữ văn học chuyên nghiên cứu các hiện tượng Hán Nôm với những đối tượng và nhiệm vụ khác nhau. Không kể những gì vốn làm thành đối tượng thực sự của bộ môn ngôn ngữ học lịch sử tiếng Việt hay bộ môn văn học cổ điển Việt Nam mà mọi người đều đã biết, theo chúng tôi, trong phạm vi của ngữ văn học Hán Nôm còn nổi bật lên ba chuyên ngành sau đây:
1. Văn tự học Hán Nôm: Nghiên cứu về chữ Hán và nhất là chữ Nôm trong văn bản Hán Nôm của các dân tộc Việt Nam. Tìm hiểu lịch sử hình thành và phát triển, tiến hành mô tả và so sánh các hệ thống chữ Nôm đó, xác lập mối liên hệ giữa chúng với các hệ thống cổ tự khối vuông khác trong khu vực. Giải quyết những vấn đề lý luận và kỹ thuật đặt ra trong việc biên soạn các bộ tự điển chữ Hán, chữ Nôm, các bảng tra cứu tư liệu Hán Nôm theo hệ thống các văn tự khối vuông, v.v...
2. Văn bản học Hán Nôm: Nghiên cứu toàn diện về lịch sử và sự tồn tại văn bản các tác phẩm Hán Nôm. Tìm hiểu những vấn đề khái quát cũng như những vấn đề cụ thể về sự hình thành, nhân bản, tàng trữ và lưu truyền các văn bản Hán Nôm. Có thể đi sâu khảo cứu các văn bản của một tác phẩm hay các tác phẩm của một tác giả, hoặc nhiều tác phẩm, nhiều tác giả cùng một thời hoặc ở những thời kỳ lịch sử khác nhau. Giải quyết những vấn đề chung và cụ thể đặt ra trong việc xử lý các văn bản Hán Nôm (giám định, hiệu đính, chú giải, phiên âm, phiên dịch…) nhằm mục đích công bố và sử dụng tác phẩm, v.v…
3. Văn tịch học Hán Nôm (6): Nghiên cứu việc phân loại và hệ thống hoá các văn bản và tác phẩm Hán Nôm. Xác định đặc trưng của từng loại hình văn bản về nội dung cũng như hình thức. Nghiên cứu và xác lập các phương thức hệ thống hoá văn bản. Giải quyết những vấn đề chung và cụ thể đặt ra trong việc xây dựng các bộ sưu tập văn bản và tác phẩm, các bảng tra cứu tư liệu Hán Nôm, v.v…Đây là lĩnh vực kế thừa của thư tịch học và thư mục học truyền thống, đồng thời là cơ sở để tiến hành hiện đại hoá (kể cả tin học hoá) công tác thông tin tư liệu Hán Nôm.
Như vậy, mỗi chuyên ngành trên đây có đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu riêng, và trong mỗi chuyên ngành cũng có thể đi sâu vào từng khía cạnh khác nhau. Điều này quy định xu hướng chuyên môn hoá cho cán bộ nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực Hán Nôm. Song mặt khác, các chuyên ngành ngữ văn học Hán Nôm không phải và không thể tách biệt với nhau hoàn toàn, mà bao giờ cũng liên quan chặt chẽ và hộ trợ cho nhau. Mối liên quan chặt chẽ này giữa các chuyên ngành Hán Nôm không những chỉ thể hiện trong khi tiến hành nghiên cứu cơ bản, mà còn thể hiện rõ rệt trong việc vạch ra và thực hiện những công trình biên soạn mang tính chất ứng dụng như các sách công cụ (chẳng hạn: lập ra các bảng tra cứu về văn bản và tác phẩm, về tác giả; soạn các bộ tự điển chữ Hán, chữ Nôm, các tập điển vựng về nhân danh, địa danh, quan chức, chữ huý trên tư liệu Hán Nôm, v.v..) và cả trong việc xây dựng các bộ sưu tập và tuyển tập tác phẩm, trong các công trình chú giải, phiên âm, phiên dịch và giới thiệu các tác phẩm Hán Nôm. Trong những công trình như thế thường phản ánh một cách tổng hợp các thành qủa nghiên cứu của nhiều chuyên môn trong lĩnh vực Hán Nôm và cả những thành tựu thuộc nhiều lĩnh vực khoa học khác nữa (không chỉ là khoa học xã hội và nhân văn, mà cả khoa học tự nhiên và công nghệ).
Không thể có một ngành khoa học nào mà lại phát sinh và phát triển một cách riêng lẻ và khép kín hoàn toàn đối với các ngành khoa học khác trong nước và trên thế giới. Ngành ngữ văn học Hán Nôm cũng vậy, nó tuyệt nhiên không phải là một ngoại lệ đối với quy luật chung đó của khoa học. Các nhà ngữ văn học Hán Nôm không thể không quan tâm và tiếp thu những thành tựu và phương pháp của các ngành khoa học khác mà trước hết là các ngành sử học (lịch sử Việt Nam và Trung Quốc), ngôn ngữ học (lịch sử tiếng Việt và lịch sử tiếng Hán) cũng như tất cả các tri thức cần thiết về mối quan hệ lịch sử - văn hoá giữa các dân tộc trong khu vực. Cần nhấn mạnh rằng, do ưu thế của văn hiến Trung Hoa ở vùng Á Đông trong lịch sử cổ đại và trung đại, chữ Hán và Hán văn (văn ngôn) đã có mặt trong kho tàng ngữ văn cổ điển của rất nhiều dân tộc ở khu vực này. Điều này đã và đang đặt ra những vấn đề chung cho ngữ văn học cổ điển của nhiều nước trong khu vực (Việt Nam, Triều Tiên – Hàn Quốc, Mông Cổ, Nhật Bản,…), đòi hỏi chúng ta phải quan tâm theo dõi và góp phần nghiên cứu. Ngoài ra, các nhà ngữ văn học Hán Nôm cũng cần phải thường xuyên tìm hiểu và trang bị cho mình những tri thức cần thiết về ngữ văn học đại cương, cũng như về lí luận văn tự học, văn bản học, thư viện học, thông tin học… tuỳ theo xu hướng chuyên môn hoá của mình. Ngược lại, với sự cố gắng không ngừng trong lĩnh vực chuyên môn và tiếp cận với các chuyên ngành khoa học khác, các nhà ngữ văn học Hán Nôm cũng có thể đóng góp đáng kể vào thành tựu và sự tiến triển của các ngành khoa học hữu quan. Ở đây, không có gì ngăn trở một nhà ngữ văn học Hán Nôm có tài năng sẽ đồng thời là một chuyên gia trong các lĩnh vực khoa học khác.
Như đã trình bày ở phần đầu bài viết này, di sản Hán Nôm là phần chủ yếu song chưa phải là toàn bộ di sản ngữ văn của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Cho nên ngữ văn học Hán Nôm mặc dù là nền tảng, song dẫu sao vẫn chưa phải là toàn bộ ngành ngữ văn học cổ điển Việt Nam. Để có một bức tranh toàn cảnh về ngữ văn học cổ điển Việt Nam, chúng ta cần phải có một đội ngũ các nhà ngữ văn học chuyên nghiên cứu các di sản ngữ văn khác của nhiều dân tộc trên đất nước ta, mà trước hết là kho tàng văn bản bằng các văn tự cổ không thuộc hệ chữ vuông Hán và cũng không thuộc hệ chữ La-tinh, như văn tự cổ điển của người Thái, người Chăm, người Khmer ở nước ta, v.v… Cần nhận thức rằng, triển khai nghiên cứu các kho tàng văn bản cổ tự đó chẳng những phù hợp với lô gích nội tại trong sự phát triển khoa học ngữ văn ở nước ta, mà trước hết đó là một đòi hỏi cấp bách trong việc xây dựng và thực hiện chính sách văn hoá - dân tộc của nhà nước ta. Như vậy, bên cạnh di sản Hán Nôm, ngữ văn học cổ điển Việt Nam còn có một khách thể nghiên cứu khác cũng không kém phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, quang cảnh chung về các chuyên ngành khoa học trong lĩnh vực nghiên cứu các văn bản cổ tự này trên đại thể vẫn còn có thể tiếp tục hình dung tương tự như đã trình bày trên đây về di sản Hán Nôm. Nghĩa là ở đây, chúng ta cũng thấy nổi bật lên các chuyên ngành như văn tự học, văn bản học, văn tịch học, v.v… Điều khác biệt cơ bản với ngữ văn học Hán Nôm là khi tiếp xúc với kho tàng văn bản bằng cổ tự Thái, Chăm, Khmer, v.v… chúng ta đồng thời tiếp xúc với những loại hình ngôn ngữ - văn tự khác hẳn, trong mối quan hệ văn hoá – lịch sử của các dân tộc trên đất nước ta với các nước láng giềng trong khu vực từ phía tây Trường Sơn đến Ấn Độ, là nơi đã hình thành nên một trong những nền văn hiến rực rỡ khác (cùng với văn hiến Ai Cập, Hy Lạp và Trung Hoa) trong thế giới cổ đại và trung đại – đó là nền văn hiến Ấn Độ, văn hiến chữ Phạn.
Chú thích:
Bài viết này của GS.TSKH Nguyễn Quang Hồng được in trong Tạp chí Hán Nôm số 2, Hà Nội, 1987, và được in lại trong sách Tạp chí Hán Nôm – 100 bài tuyển chọn của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội, 2000) và trong một vài tuyển tập khác. Chúng tôi đã xin phép tác giả được đăng lại trên website Digitizing Việt Nam.
1. Xem Ju. V. Rozhdestvensky, Vvedenie v obshuju filologiju (Dẫn luận ngữ văn học đại cương), Nxb “Vyshaja shkola”, M., 1979 (tiếng Nga). Cũng không loại trừ khả năng có thể có những dân tộc vùng này đã tự mình tạo ra được một lối chữ riêng tại chỗ, mà không chịu ảnh hưởng của một nền văn hoá nào rõ rệt, mặc dù trên thực tế rất ít gặp những trường hợp như vậy. Xe, I.J. Gelb, A study of writing (Nghiên cứu về chữ viết), Nxb “Raduga”, M., 1982, tr. 258, chú thích số 30 (tiếng Nga).
2. Một thí dụ thú vị cho những trường hợp này là bài Hán văn Hồng Nghệ An phú của nhà cách mạng Lê Hồng Phong sáng tác khi bị tù tại Côn Đảo. Không có giấy bút, Lê Hồng Phong sáng tác theo kiểu nghĩ được câu nào đọc câu ấy cho một đồng chí khác ngồi cũng tù nhớ nhập tâm theo âm Hán Việt. Hơn 40 năm sau, đồng chí này ra miền Bắc đọc lại toàn văn cho cụ Thạch Can ghi lại bằng chữ Quốc ngữ và đăng trên Tập san Nghiên cứu Hán Nôm, số 1, 1985.
3. Tinh thần chung toát ra từ toàn bộ những quan điểm về ngữ văn học của Giáo sư Ju. V. Rozhdestvensky (sách đã dẫn) là cơ sở để chúng tôi phát biểu định nghĩa trên đây về ngữ văn và ngữ văn học.
4. Về sự xê dịch trong cách hiểu thuật ngữ ngữ văn học (philology) ở phương Tây có thể xem, chẳng hạn: Slovar terminov literaturovedenijia (Từ điển nghiên cứu thuật ngữ văn học) do L.I. Timofiev và S.V. Turaev chủ biên, Nxb “Prosveshenije”, M., 1974, tr. 434-436 (tiếng Nga).
5. Ở đây, hai chữ “cổ điển” không có nghĩa đối lập với những gì là tân tiến, là “hiện đại”, mà muốn nói tới đối tượng nghiên cứu là những văn bản và tác phẩm ngôn từ đã được hình thành trong quá khứ và truyền lại đến nay.
6. Thuật ngữ thư tịch học có lẽ không thích hợp lắm, vì tên gọi này (vốn gắn liền với khái niệm về sách) không bao quát được hết các loại hình văn bản khác nhau và các nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra nhưng những gì đang được hình dung ở đây.
1. Mở đầu
Bài viết này giới thiệu khái quát về các dân tộc và ngôn ngữ, chữ viết, các loại quan hệ ngôn ngữ, sinh thái ngôn ngữ, … ở Việt Nam. Cũng xin trình bày kĩ về tình hình nghiên cứu ở Việt Nam về ngôn ngữ các “dân tộc thiểu số”.
2. Dân tộc và ngôn ngữ ở Việt Nam
Theo điều tra dân số năm 2009, Việt Nam có 54 dân tộc, tổng số dân là 85.846.997 người. Đó là: Kinh, Tày, Thái, Mường, Khơ Me, Hmông, Nùng, Hoa, Dao, Gia Rai, Ê Đê, Ba Na, Sán Chay, Chăm, Cơ Ho, Xơ Đăng, Sán Dìu, Hrê, Ra Glai, Mnông, Xtiêng, Thổ, Bru - Vân Kiều, Khơ Mú, Cơ Tu, Giáy, Ta Ôi, Mạ, Gié - Triêng, Co, Chơ Ro, Xinh Mun, Hà Nhì, Chu Ru, Lào, Kháng, La Chí, Phù Lá, La Hủ, La Ha, Pà Thẻn, Lự, Ngái, Chứt, Lô Lô, Mảng, Cơ Lao, Bố Y, Cống, Si La, Pu Péo, Rơ Măm, Brâu, Ơ Đu.
Trong số 54 dân tộc, dân tộc Kinh có dân số 73. 594. 427 người, chiếm 85,6% tổng dân số cả nước, là “dân tộc đa số”. 53 dân tộc còn lại với dân số 12. 252. 570 người, chiếm 14,4% tổng dân số, là các “dân tộc thiểu số”.
Ở Việt Nam, ngôn ngữ là tiêu chí quan trọng để phân định dân tộc. Theo cách hiểu phổ biến, tương ứng với 54 dân tộc phải là 54 ngôn ngữ. Tuy nhiên, số lượng các ngôn ngữ ở Việt Nam lớn hơn 54: Có những dân tộc gồm các bộ phận nói những ngôn ngữ khác nhau. Việt Nam có khoảng trên 90 ngôn ngữ.
3. Quan hệ cội nguồn và loại hình các ngôn ngữ ở Việt Nam
3.1. Quan hệ cội nguồn:
Theo quan điểm phổ biến, các dân tộc ở Việt Nam nói những ngôn ngữ thuộc 5 ngữ hệ:
- Ngữ hệ Nam Á (Austroasiatic): Việt, Mường, Chứt, Thổ, Khơ Mú, Xinh Mun, Mảng, Kháng, Ơ đu, Cơ Tu, Bru -Vân Kiều, Tà Ôi, Ba Na, Xơ Đăng, Giẻ-Triêng, Hrê, Brâu, Rơ măm, Co, Cơ Ho, Xtiêng, Mạ, Mnông, Chơ Ro, Khơ Me.
- Ngữ hệ Nam Đảo (Austronesian): Chăm, Ra Glai, Gia Rai, Ê Đê, Chu Ru.
- Ngữ hệ Tai – Ka Đai (Tai – Kadai): Tày, Thái, Nùng, Sán Chay (nhóm Cao Lan), Giáy, Bố Y, Cơ Lao, La Chí, Pu Péo, La Ha, Lào, Lự.
- Ngữ hệ Hmông – Miền (Hmong – Mien): Hmông, Dao, Pà Thẻn.
- Ngữ hệ Hán – Tạng (Sino – Tibetan): Hà Nhì, Lô Lô, Phù Lá, La Hủ, Cống, Si La, Hoa, Ngái, Sán Dìu.
3.2. Các ngôn ngữ ở Việt Nam xét về quan hệ loại hình:
Tất cả các ngôn ngữ ở Việt Nam đều cùng một loại hình: loại hình đơn lập.
Các ngôn ngữ đơn lập (còn gọi là “các ngôn ngữ phi hình thái” - isolating languages), có một số đặc tính nổi bật, dễ nhận biết và thường gặp của các ngôn ngữ thuộc loại hình đơn lập như sau:
- Các từ không biến đổi hình thái.
- Các quan hệ ngữ pháp và các ý nghĩa ngữ pháp được biểu thị chủ yếu nhờ trật tự từ và các hư từ.
- Ở nhiều ngôn ngữ thuộc loại hình này, trong vốn từ cơ bản (cơ tầng của từ vựng) phần lớn là các từ có hình thức đơn tiết. Hình thức một âm tiết này cũng thường là của hình vị và từ (“nhất thể ba ngôi”).
Các ngôn ngữ loại hình đơn lập ở Việt Nam được chia thành 3 tiểu loại hình:
- Tiểu loại hình “cổ” (Khơ Me, Cơ Ho, Chăm, Ra Glai,…).
- Tiểu loại hình “trung” (Việt, Dao, Tày, Thái,...).
- Tiểu loại hình “mới”(Hmông, Hà Nhì, Cống, Si La,...).
Xu thế biến đổi về mặt loại hình như đơn tiết hóa, hình thành thanh điệu là những xu thế biến đổi chung của các ngôn ngữ ở Việt Nam.
Ngoài ra, ở Việt Nam còn có các loại quan hệ xã hội – ngôn ngữ: (i) quan hệ giữa tiếng Việt – ngôn ngữ quốc gia với ngôn ngữ các dân tộc thiểu số; (ii) quan hệ giữa ngôn ngữ của dân tộc thiểu số này với ngôn ngữ của dân tộc thiểu số khác; (iii) quan hệ giữa các ngôn ngữ và tiếng địa phương trong nội bộ mỗi dân tộc; và (iv) quan hệ giữa các ngôn ngữ xuyên biên giới (Việt – Trung; Việt – Lào; Việt – Campuchia,...). Đây là kết quả của những tác nhân lịch sử tộc người, quốc gia, khu vực; kinh tế - xã hội; chính trị; văn hóa,… nhưng chủ yếu là kết quả của những cuộc chiến tranh, tình trạng di dân và nhập cư, sự tách ra và sáp nhập lãnh thổ, lối cư trú xen kẽ hay sự cát cứ, sự quy tụ và phân li tộc người.
4. Chữ viết các dân tộc ở Việt Nam
Trong số các dân tộc ở Việt Nam, nhiều cộng đồng đã có chữ viết. Một số dân tộc có nhiều hệ chữ viết, có dân tộc lại chưa có chữ. Một số hệ chữ viết có lịch sử trên dưới nghìn năm, lại có nhiều hệ chữ viết khác, được chế tác gần đây, dựa trên tự dạng latin. Đó có thể là chữ viết ghi ý, ghi âm, hoặc nửa ghi âm nửa ghi ý.
Nói chung ở Việt Nam có 2 loại chữ viết:
- Các hệ thống chữ viết cổ truyền: Đây là các hệ thống chữ viết đã có lịch sử nhiều thế kỉ: chữ Hán, chữ Nôm Việt, chữ Chăm cổ truyền, chữ Khơ Me, chữ Nôm Tày, Nôm Nùng, Nôm Ngạn, Nôm Dao, Nôm Sán Chí, Nôm Sán Dìu, chữ Lự, chữ Thái cổ. Đó là các hệ chữ viết của dân tộc Khơ Me, Thái, Chăm, Tày, Nùng, Dao,....
Chữ Thái cổ, Chăm cổ, Khơ Me dựa trên tự dạng Sanskrit. Chữ cổ của người Tày, Nùng, Cao Lan, Ngạn, Dao (và chữ “Nôm” của người Kinh) thuộc dạng chữ vuông, bắt nguồn từ chữ Hán, có truyền thống vài thế kỉ.
- Các hệ thống chữ viết “mới” (còn gọi là: các chữ viết từ dạng latin): Đây là các hệ chữ viết được chế tác trên cơ sở chữ latin: chữ Quốc ngữ, chữ Ba Na, Gia Rai, Ê Đê, Cơ Ho), Pa Cô-Ta Ôi, Gié-Triêng, Bru-Vân Kiều, Cơ Tu, Ra Glai, Tày– Nùng, Mường, Thái,… Các hệ chữ viết tự dạng latin của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam ra đời trong những thời kì khác nhau. Một số bộ chữ ra đời trước năm 1945 (Ba Na, Gia Rai, Ê Đê, Cơ Ho); phần lớn hệ thống chữ latin được chế tác sau năm 1960.
5. Những nghiên cứu ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết) các dân tộc ở Việt Nam
(Tiếng Việt là ngôn ngữ quốc gia và có số lượng người nói lớn nhất, đã được nghiên cứu nhiều và tương đối đa dạng. Sau đây, chỉ nói về nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số)
5.1. Thời kì trước năm 1954
Bên cạnh việc nghiên cứu tiếng Việt, các nhà khoa học Pháp thuộc Trường Viễn Đông Bác Cổ đã nghiên cứu một số ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
Viện Viễn Đông Bác cổ (tiếng Pháp: École française d'Extrême - Orient, viết tắt EFEO) là một trung tâm nghiên cứu của Pháp về Đông phương học, chủ yếu trên thực địa. Trong hơn một thế kỉ tồn tại, Viện Viễn Đông Bác cổ đã đạt được nhiều thành tựu về Đông phương học. Tạp chí nghiên cứu Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient (Tập san Viện Viễn Đông Bác cổ, viết tắt BEFEO), đã trở nên quen thuộc trong giới khảo cổ và lịch sử châu Á. Trụ sở đầu tiên của Viện Viễn Đông Bác Cổ ở Sài Gòn - Nam Kì, năm 1900. Năm 1902, trụ sở của EFEO được đặt tại Hà Nội với nhiệm vụ chính là khai quật khảo cổ, thu thập các tài liệu viết tay, bảo tồn các công trình, nghiên cứu về dân tộc học, ngôn ngữ và lịch sử các nước châu Á. Giai đoạn khởi đầu của EFEO ghi dấu ấn nhờ những đóng góp của các học giả, những tên tuổi lớn về Đông phương học như Paul Pelliot, Henri Maspero, Paul Demiéville về Ngôn ngữ học, Louis Finot, George Cœdès về khoa văn khắc Đông Dương, Henri Parmentier về khảo cổ học, Paul Mus về lịch sử tôn giáo... Hiện nay, còn lưu giữ những tài liệu của EFEO nghiên cứu về tiếng Việt, Chăm, Ba Na, Mnông, Cơ Ho, Gia Rai,... và chữ viết của các dân tộc này.
Một số chữ viết được xây dựng từ trước năm 1945: chữ của người Ê Đê, Gia Rai, Ba Na. Đây là những chữ viết do các cố đạo chế tác và đã được sử dụng để truyền giáo, đã phổ biến trong các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Tuy được dùng ngay từ những năm hai mươi của thế kỷ XX, nhưng đến năm 1935, Toàn quyền Đông Dương mới ra Nghị định công nhận bộ chữ viết của người Ê Đê, và cho phép nó được sử dụng trong đời sống. Bộ chữ viết này thực ra đã được cải tiến một số điểm nhất định vào năm 1937. Thời sau, đặc biệt vào những năm cuối thập kỉ 80 của thế kỉ XX, một số người muốn có sự thay đổi nhất định trong hệ thống chữ cái cho đơn giản hơn để đáp ứng nhu cầu in ấn và xuất bản sách vở, tài liệu tiếng Ê Đê.
Một số bộ chữ và các phương án phiên âm khác có từ thời Pháp (như Hmông, Mnông, Chăm Cơ Ho, Ra Glai..., kể cả cách ghi ban đầu của Quốc ngữ), mặc dù cho đến nay không được dùng nữa, nhưng đã là những tư liệu bổ ích cho nghiên cứu chế tác những bộ chữ mới sau này.
5.2. Thời kì từ năm 1954 đến 1975
Đây là thời kì Việt Nam bị chia cắt làm hai miền: Bắc và Nam.
Ở miền Bắc, nhiệm vụ nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số chủ yếu được giao cho Viện Ngôn ngữ học (Viện Khoa học xã hội Việt Nam). Ngoài ra, ở một số trường đại học và Viện Khoa học giáo dục… cũng tiến hành nghiên cứu mặt này hay mặt khác trong ngôn ngữ các dân tộc thiểu số. Chữ Tày - Nùng và chữ viết Hmông được xây dựng và ban hành năm 1961, được sử dụng trong giáo dục song ngữ và in ấn một số tài liệu. Đã có nhiều công trình đã được xuất bản, cả về nghiên cứu cơ bản lẫn thực hành: Ngữ pháp tiếng Tày Nùng (1971), Tìm hiểu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam (1972), Từ điển Mèo - Việt (1971), Từ điển Tày - Nùng - Việt (1974),...
Viện Ngôn ngữ học (thành lập năm 1968, tên tiếng Anh: Institute of Linguistics) có chức năng nghiên cứu những vấn đề cơ bản về lí luận và ứng dụng ngôn ngữ của tiếng Việt, của các ngôn ngữ dân tộc thiểu số và các ngoại ngữ ở Việt Nam, cung cấp các luận cứ khoa học cho việc hoạch định chính sách ngôn ngữ, tổ chức tư vấn và đào tạo sau đại học về ngôn ngữ học,...
Ở miền Nam từ năm 1957, đã có những hoạt động, với các hoạt động nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số, chế tác các hệ thống chữ viết, tiến hành giáo dục song ngữ và truyền đạo.
Tổ chức SIL (còn gọi là "Viện Ngữ học mùa hè", tiếng Anh: Summer Institute of Linguistics), có trụ sở chính tại Dallas, Texas - Hoa Kì. Tổ chức này có mục đích chính là nghiên cứu, thu thập tư liệu về các ngôn ngữ, đặc biệt là những ngôn ngữ ít được biết đến, để mở rộng tri thức ngôn ngữ, thúc đẩy việc biết chữ, dịch Kinh Thánh Kitô giáo sang các ngôn ngữ địa phương và hỗ trợ phát triển ngôn ngữ thiểu số. Từ năm 1957, tổ chức này bắt đầu hoạt động ở miền Nam Việt Nam. Họ đã tiến hành nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số, làm chữ viết, dịch Kinh thánh ra các ngôn ngữ dân tộc thiểu số để truyền đạo Tin lành, đã biên soạn tài liệu dạy song ngữ (sách giáo khoa, ngữ vựng đối chiếu...). Việc dạy – học theo chương trình giáo dục song ngữ được thực hiện. Trên cơ sở những chữ này, nhiều ấn phẩm về tôn giáo và sách giáo khoa bằng chữ viết các dân tộc thiểu số đã ra đời.
Kết quả là từ khi David Thomas người đầu tiên của tổ chức Viện Ngữ học Mùa hè đến Việt Nam cho đến hết 17 năm sau, hàng loạt các hệ thống chữ đã được chế tác và rất nhiều tài liệu cho việc giáo dục song ngữ đã được chuẩn bị. Đã có những tài liệu dạy - học các ngôn ngữ Ba Na, Bru - Vân Kiều, Chu Ru, Cơ Ho, Ê Đê, Mnông, Nùng, Ra Glai, Rơ Ngao, Xơ Đăng, Xtiêng, Thái, Cơ Tu, Hroi, Mường,... Từ năm 1967, SIL đã cấp các tài liệu này cho trẻ em lớp Vỡ lòng theo cách bắt đầu đọc và viết tiếng mẹ đẻ, rồi sau chuyển dần lên các lớp phổ thông học xen kẽ với tiếng Việt (song ngữ), nhằm "chuyển khả năng đọc tiếng mẹ đẻ sang đọc tiếng Việt". Từ năm 1967 đến năm 1975, đã có khoảng 800 -1000 giáo viên (phần lớn là người bản ngữ) đã được huấn luyện và dạy theo các tài liệu nói trên.
Có hàng loạt sách công cụ (từ điển đối chiếu, ngữ vựng) đã được biên soạn bằng các hệ thống chữ kể trên (về sau này có vàỉ hệ thống đã được sửa đổi ít nhiều, ví dụ: Gia Rai, Ba Na, Ê Đê...) chẳng hạn: Học tiếng Ê đê (Nguyễn Hoàng Chừng, 1961), Thổ Dictionary, Thổ - Vietnamese - English (A. C. Day, 1962), Từ điển Êđê - Pháp và Pháp - Êđê (R.P. Louison Benjamin, 1964) của Sedang Vocabulary (Kenneth D. Smith, 1967), Mnong Rơlơm Dictionary (Henry Blood..., 1976), Klei hriăm boh blu Êđê - Ngữ vựng Êđê (Y Cang Niê Siêng, 1979), Chù chìh dò tơtayh Jeh "Ngữ vựng Jeh" (Patrick D. Cohen, 1979), A Rhade - English Dictionary with English - Rhade Finderlist (James A.Tharp and Y Bhăm, 1980), Katu Dictionary: Katu - Vietnamese - Engỉish (N. A. Costello, 1991)..., cùng với các tài liệu hướng dẫn, các bài báo về từng mặt ngữ pháp của các ngôn ngữ (trong đó đối tượng miêu tả được thể hiện bằng chữ của các dân tộc này).
Trước năm 1975, sự nghiệp xây dựng và truyền bá chữ viết không phải chỉ của tổ chức SIL, mà còn của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam. Các cán bộ Mặt trận đã tiến hành xây dựng chữ Cơ Tu, Xơ Đăng, Bru - Vân Kiều, Pa Cô, Hrê, Co, Mnông, Xtiêng..., cải tiến các bộ chữ Ba Na, Ê Đê, Gia Rai và tổ chức truyền bá, sử dụng chữ các dân tộc thiểu số.
5.3. Thời kì từ sau 1975 đến nay
Đây là thời kì Việt Nam thống nhất.
Năm 1981 phương án chữ Thái theo hệ latin cũng được xây dựng. Ngoài việc xây dựng mới các bộ chữ, các cơ quan có trách nhiệm cũng đã cải tiến nhiều bộ chữ như: chữ Cơ Ho (ở Lâm Đồng), chữ Bru - Vân Kiều, Pa Cô - Ta Ôi (ở Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế), chữ Ra Glai (ở Ninh Thuận), chữ Cơ Tu (ở Quảng Nam), chữ Chăm Hroi, chữ Ba Na Kriêm, chữ Hrê (ở Bình Định), chữ Mnông (ở Đắk Nông, Đắk Lắk), chữ Ca Dong (Xơ Đăng) ở Quảng Nam v.v.. Nhiều công trình xuất bản: Ngữ pháp tiếng Cơ ho (1985), Tiếng Pu Péo (1992), Tiếng Rục (1993), Những vấn đề chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam (1993), Ngữ âm tiếng Ê đê (1996), Tiếng Ka tu: Cấu tạo từ (1995), Tiếng Mnông - ngữ pháp ứng dụng (1996), Tiếng Ka tu (1998), Tiếng Bru - Vân Kiều (1998), Tiếng Hà Nhì (2001), Cảnh huống và chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam (2002), Ngữ âm tiếng Cơ ho (2004), Tiếng Mảng (2008), Ngữ pháp tiếng Cơ tu (2011), Tiếng Mảng (2008), Tìm hiểu ngôn ngữ các dân tộc ở Việt Nam (2009), Ngữ pháp tiếng Êđê (2011), Ngữ pháp tiếng Cor (2014), Ngôn ngữ các dân tộc ở Việt Nam (2017), Ngữ pháp tiếng Hmông (2019),...
Những công trình từ điển đối dịch đa ngữ: Từ điển Việt - Gia rai (1977), Từ điển Việt - Cơ ho (1983), Từ điển Việt - Tày - Nùng (1984), Từ điển Thái - Việt (1990), Từ điển Việt - Êđê (1993), Từ điển Việt - Mông (Việt - Hmôngz - 1996), Từ vựng các phương ngữ Êđê (1998), Từ điển Cơ tu - Việt, Việt - Cơ tu (2007), Từ điển Êđê - Việt (2015), Từ điển Việt – Cor, Cor – Việt (2024),...
Đã có không ít những sách dạy-học ngôn ngữ dân tộc thiểu số đã được xuất bản. Đó là, Sách học tiếng Pakôh - Taôih (1986), Hdruôm hră hriăm klei Êđê (1988),Sách học tiếng Bru - Vân Kiều (1986), Sách học tiếng Êđê (1988), Hdruôm hră hriăm klei Êđê (2004), Pơrap Kơtu (Tiếng Cơ tu - 2006), Bôq chù Hrê Bình Đình (Bộ chữ Hrê Bình Định - 2008), Xroi Kool -Tiếng Cor (2014)...
Sau Quyết định 53 - CP của Hội đồng Chính phủ (22/2/1980) Việt Nam về chủ trương đối với chữ viết các dân tộc thiểu số, các trí thức dân tộc thiểu số và các nhà ngôn ngữ học Việt Nam đã tiến hành việc hoàn thiện chữ viết Cơ Ho, Co, Hrê, Ba Na, Ra Glai, Mnông, Xơ Đăng, Cơ Tu, Ca Dong,... và dùng các chữ này biên soạn các sách giáo khoa, từ điển đối dịch, ngữ pháp và đưa vào giảng dạy. Nhiều tác phẩm văn nghệ dân gian: luật tục, trường ca, truyện cổ... đã được sưu tầm, biên dịch và xuất bản qua các chữ này.
Nhiều sáng tác văn học, các sách quảng bá, phổ biến về tri thức phổ thông xuất bản bằng song ngữ Việt - dân tộc thiểu số đã được phổ biến rộng rãi khắp cả nước như: Sóng chụ son sao (dân tộc Thái), Tiếng hát làm dâu (dân tộc Mông), Đăm San, Xinh Nhã (dân tộc Ê Đê), Người Mông nhớ Bác Hồ, Chỉ vì quá yêu (dân tộc Mông), Luật tục dân tộc Gia Rai, Luật tục dân tộc Mnông, Văn vĩ quan làng (dân tộc Tày) v.v.. Gần đây, các tác phẩm sử thi của các dân tộc vùng Trường Sơn, Tây Nguyên như sử thi Xtriêng, sử thi Ra Glai, sử thi Mnông, sử thi Gia Rai, sử thi Ê Đê, sử thi Ba Na… đều được sưu tầm và xuất bản bằng song ngữ.
Trong giáo dục, đến năm 2025 đã có 8 ngôn ngữ dân tộc thiểu số (gồm: Thái, Mông, Ba Na, Gia Rai, Xơ Đăng, Chăm, Khmer, Hoa, Ê Đê) được đưa vào giảng dạy trong các trường tiểu học, phổ thông dân tộc nội trú. Nhiều bộ sách giáo khoa bằng ngôn ngữ dân tộc thiểu số hoặc song ngữ dân tộc thiểu số - Việt đã được biên soạn.
Trên các phương tiện thông tin đại chúng, ngay từ những năm 1956, Đài tiếng nói Việt Nam đã có các chương trình phát thanh bằng tiếng Gia Rai, Ba Na, Ê Đê, Hrê, Mnông và Châu Mạ, sau đó là tiếng Thái, tiếng Mông, tiếng Mường,… đã được thực hiện. Đến năm 2025, đã có gần 30 ngôn ngữ dân tộc thiểu số được phát sóng trên Đài Phát thanh VOV4 và trên Đài Truyền hình VTV5. Các tỉnh có đông người dân tộc thiểu số cũng có các chương trình phát thanh và truyền hình bằng tiếng ngôn ngữ dân tộc thiểu số: Khơ Me, Chăm, Ê Đê, Gia Rai, Ba Na, Cơ Tu, Cơ Ho, Xơ Đăng, Xtriêng, Thái, Mường, Dao, Mông, Mnông, Hrê, Châu Ro, Bru-Vân Kiều, Ta Ôi, Ra Glai,…
Trong sự hợp tác nghiên cứu, nhiều nhà khoa học nước ngoài: Nga, Mĩ, Trung Quốc, Pháp,… đã đến Việt Nam.
Từ những năm 90 của thế kỉ XX, trong khuôn khổ hợp tác Việt - Xô (từ 1979, sau này là Việt - Nga), chương trình Hợp tác Việt-Xô (sau này là Việt - Nga) khảo sát điền dã ngôn ngữ DTTS Việt Nam đã điều tra nhiều ngôn ngữ làm cơ sở biên soạn nhiều công trình dưới dạng tư liệu điền dã: Tiếng La Ha (1986), Tiếng Mường (1987), Tiếng Kxinhmul (1990), Tiếng Pu Péo (1992), Tiếng Rục (1993), Tiếng Cơ Lao (2011).
6. Lời kết
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc và đa ngôn ngữ.
Đã có không ít các ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam được nghiên cứu. Những định hướng:
- Nghiên cứu các ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết) ở diện đồng đại, nhằm phát triển các đặc điểm trong các ngôn ngữ này: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, chữ viết, tiếng địa phương (phương ngữ, thổ ngữ),…
- Nghiên cứu các mối quan hệ ngôn ngữ khác nhau: họ hàng, loại hình, địa lí ngôn ngữ học, tiếp xúc…
- Nghiên cứu sự hành chức của ngôn ngữ trong đời sống: cảnh huống ngôn ngữ, chính sách ngôn ngữ, ngôn ngữ trong giáo dục, văn hoá, trên các phương tiện thông tin đại chúng,…
- Nghiên cứu các ngôn ngữ nhằm các mục đích ứng dụng: giáo dục ngôn ngữ và giáo dục bằng ngôn ngữ, chế tác và cải tiến các bộ chữ, biên soạn các sách công cụ (từ điển, ngữ pháp, sách giáo khoa), xác định thành phần tộc người, sưu tầm vốn văn nghệ dân gian, …
Tuy vậy, đến nay nhiều ngôn ngữ và nhiều mặt trong các ngôn ngữ ở Việt Nam chưa được nghiên cứu đầy đủ. Danh sách các ngôn ngữ trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay mang tính ước định. Chưa xác định được phương cách nào có hiệu quả và khả thi cho giáo dục ngôn ngữ ở các vùng dân tộc thiểu số. Chưa có lối thoát hiệu quả ra khỏi tình trạng mai một của các ngôn ngữ có vị thế thấp và ít người nói, trong điều kiện hiện nay của Việt Nam. Một số ngôn ngữ đang mai một và cũng có những ngôn ngữ đã thành tử ngữ.
Nhân đây, xin được chia sẻ nhận xét của tác giả René Gillouin (trong cuốn sách nhan đề “Từ Alsace đến Flandre: tính thần bí ngôn ngữ học” – trích dẫn theo Phạm Quỳnh [8]):
“Đối với một dân tộc, mất tiếng mẹ đẻ ngang với mất linh hồn”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Baker, Colin (2008), Những cơ sở của giáo dục song ngữ và vấn đề song ngữ , Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
Gregerson, Marilin (1989), “Ngôn ngữ học ứng dụng: Dạy đọc chữ (tài liệu cho các ngôn ngữ thiểu số)”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 4.
Hồng, Nguyễn Quang (2018), Ngôn ngữ. Văn tự. Ngữ văn, Nxb Khoa học Xã hội, H.
Lợi, Nguyễn Văn (1995), “Vị thế tiếng Việt ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 4.
Lợi, Nguyễn Văn (2012), “Công trình tra cứu về ngôn ngữ và vấn đề bảo tồn ngôn ngữ có nguy cơ tiêu vong”, Tạp chí Từ điển học & Bách khoa thư, s. 2(16).
Solncev V.M... [1982], "Về ý nghĩa của việc nghiên cứu các ngôn ngữ phương đông đối với sự phát triển của ngôn ngữ học đại cương", Ngôn ngữ số 4.
Tuệ, Hoàng... (1984), Ngôn ngữ các dân tộc thiểu số Việt Nam và chính sách ngôn ngữ, Nxb. Khoa học xã hội, H.
Quỳnh, Phạm (2007), Tiểu luận (viết bằng tiếng Pháp trong thời gian 1922 – 1932), Nxb. Tri thức, H.
Thông, Tạ Văn (1993), “Mối quan hệ giữa chữ và tiếng các dân tộc thiểu số với chữ và tiếng Việt”, Trong: Những vấn đề chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, H.
Thông, Tạ Văn – Tùng, Tạ Quang (2017), Ngôn ngữ các dân tộc ở Việt Nam, Nxb. Đại học Thái Nguyên.
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc UNESCO Băng Cốc (2007), Tài liệu hướng dẫn Phát triển Chương trình Xóa mù chữ và Giáo dục cho người lớn tại cộng đồng ngôn ngữ thiểu số, NXB Giao thông Vận tải, H.
1. Giải thưởng Nhà nước trao cho một chuyên luận về chữ Nôm
Ngày 11/01/2017, Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký Quyết định số 104/QĐ-CTN tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh cho 9 công trình và cụm công trình Khoa học và Công nghệ (KH&CN) và Quyết định số 105/QĐ CTN tặng Giải thưởng Nhà nước cho 7 công trình và cụm công trình KH&CN, theo quy chế xét duyệt 5 năm một lần. Ngày 15/1/2017, tại Hội trường Bộ Quốc phòng (Hà Nội) đã diễn ra Lễ trao giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước về KH & CN đợt 5 cho các nhà khoa học ưu tú, tiêu biểu của cả nước. Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã đến dự buổi lễ và trao tặng giải thưởng cho các nhà khoa học được giải. Trong bài phát biểu tại buổi lễ, Chủ tịch nước ghi nhận: “Các công trình được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ đợt này là những công trình xuất sắc, tiêu biểu, được ứng dụng hiệu quả nhất, có ý nghĩa to lớn trong việc bảo vệ sức khỏe, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, nâng cao năng lực cạnh tranh, vị thế, trình độ khoa học và công nghệ của đất nước trong khu vực và trên thế giới”.
Cũng trong buổi lễ, ông Chu Ngọc Anh - Bộ trưởng Bộ KH & CN, Chủ tịch Hội đồng Giải thưởng cấp Nhà nước, cho biết: “Trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, là những thành tựu xuất sắc trong nghiên cứu về triết học, lịch sử và ngôn ngữ, trong đó làm rõ tầm cao tư duy của dân tộc Việt cũng như các giá trị, hạn chế và các bài học lịch sử quý báu mà ông cha ta để lại; là những nghiên cứu về chữ Nôm theo một khung lý thuyết mới, các thao tác tiếp cận mới, qua đó công trình được giới nghiên cứu trong và ngoài nước nhiệt liệt đón nhận, sử dụng với tần suất lớn trong các chuyên khảo nghiên cứu chữ Nôm, ngữ văn Hán Nôm ở Việt Nam cũng như nước ngoài hiện nay.”
Trong các công trình và tác giả được vinh danh đợt này có chuyên luận Khái luận văn tự học chữ Nôm (Nxb. Giáo dục, 2008) của GS.TSKH Nguyễn Quang Hồng - nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Viện NCHN). Đây là sự ghi nhận xứng đáng ở cấp quốc gia đối với một chuyên khảo ở tầm cao lí thuyết văn tự học của một nhà khoa học đầu ngành Hán Nôm cũng như ngôn ngữ văn tự học. Viện NCHN từng có một số cựu cán bộ viên chức được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước, nhưng họ đều là những người công tác tại Viện NCHN trong một thời gian không dài rồi chuyển sang đơn vị khác, và được giải thưởng với tư cách cán bộ của đơn vị khác. Vì vậy, có thể coi đây là giải thưởng Nhà nước đầu tiên được trao cho một nhà khoa học gắn bó phần lớn sự nghiệp với Viện NCHN. Theo nghĩa đó, giải thưởng cao quý này là một niềm vinh dự đối với Viện NCHN, đồng thời cũng là động lực, là nguồn động viên để các cán bộ viên chức Viện NCHN nỗ lực hơn nữa để đóng góp cho sự nghiệp khoa học và công nghệ.
2. GS.TSKH Nguyễn Quang Hồng: nhân vật học thuật “lực lưỡng”
Dù sinh ra (1939) và làm việc tại Việt Nam, nhưng Nguyễn Quang Hồng lại có được cơ duyên đào tạo trường kì ở những trung tâm học thuật nước ngoài ngay từ thủa sinh viên. Ông tốt nghiệp Cử nhân Ngữ văn tại Đại học Bắc Kinh (1965), tốt nghiệp Phó Tiến sĩ (nay là Tiến sĩ) Ngữ văn tại Đại học Quốc gia Moskva và Viện Đông phương học Liên Xô (1974), sau đó tốt nghiệp Tiến sĩ khoa học Ngữ văn tại Đại học Quốc gia Moskva (1985). Được đào tạo căn bản và thâu thái được tinh hoa của hai trung tâm khoa học Ngữ văn Đông và Tây thời danh kể trên, ông đã cho ra đời những công trình nghiên cứu ngữ văn Hán Nôm và ngôn ngữ học không lẫn vào đâu được. Đặc điểm bao trùm của những công trình ấy là tính lí thuyết cao, vấn đề nghiên cứu được triển khai một cách logic và hệ thống, lối hành văn chặt chẽ khoa học, nhưng không cố lên gân lên cốt, mà nhiều lúc hóm hỉnh, hấp dẫn.
Sau nhiều năm nghiên cứu và giảng dạy về ngôn ngữ và văn tự tại nhiều trường đại học và viện nghiên cứu chuyên ngành, ông đã “trình làng” nhiều tác phẩm then chốt: Văn khắc Hán Nôm Việt Nam (chủ biên, 1992), Âm tiết và loại hình ngôn ngữ (chuyên luận, 1994, 2001, 2012), Di văn chùa Dâu (chủ biên, 1996), Truyền kì mạn lục giải âm (biên khảo, phiên chú, 2001), Tự điển chữ Nôm (chủ biên, 2006), Kho chữ Hán Nôm mã hoá (đồng chủ biên, 2008), Khái luận văn tự học chữ Nôm (chuyên luận, 2008), Tự điển chữ Nôm dẫn giải (2 tập, 2014, gần 2.400 trang, công trình cá nhân), Âm tiết tiếng Việt và ngôn từ thi ca (viết cùng phu nhân là TS. Phan Diễm Phương, đang in). Ông còn là tác giả của hơn 100 bài nghiên cứu công bố trên các ấn phẩm chuyên ngành cả trong và ngoài nước. Ông cũng từng được mời thuyết trình và giao lưu khoa học tại Hoa Kì, Pháp, Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Hong Kong, Singapore.
3. Khái luận văn tự học chữ Nôm: tác phẩm học thuật “vạm vỡ”
Đặc trưng căn bản và tiên quyết của cuốn chuyên khảo này chính là tiền đề phương pháp luận lấy văn tự học làm bản vị. Đây là điểm cốt yếu và khác biệt của cuốn sách, bởi các chuyên khảo về chữ Nôm trước đây thường đặt vấn đề ngôn ngữ học lịch sử tiếng Việt lên trên vấn đề văn tự học khi tiếp cận kho tàng văn hiến chữ Nôm. Việc trả lại bản chất văn tự học cho hướng tiếp cận nghiên cứu chữ Nôm còn giúp cho cuốn sách, xét từ khía cạnh lịch sử văn hiến, khắc phục được nhược điểm cố hữu trong việc nghiên cứu chữ Nôm là thường quá chú trọng tới những văn hiến có niên đại sớm, mà xao lãng những văn hiến có niên đại muộn, khoảng từ thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX.
Từ tiền đề phương pháp luận trên, cuốn sách đã triển khai nghiên cứu một cách hệ thống và mang đậm tính lí luận. Trong tình trạng việc nghiên cứu Hán Nôm thường còn dừng lại ở mức độ miêu tả sự kiện, thì những nghiên cứu mang tính lí luận chuyên ngành của Nguyễn Quang Hồng lại hướng tới phân tích, giải thích sự kiện, và đó chính là điểm sáng nổi trội mà một lối tư duy thông thường nào đó hoàn toàn có thể phán rằng “những cái ấy ai chẳng biết!”. Nhưng để khái quát hóa “những cái ai chẳng biết” vốn lẻ tẻ và rời rạc ấy thành một hệ thống mang tính lí luận như những gì mà tác giả đã thực hiện trong các công trình của mình (tất nhiên không loại trừ cuốn sách này) thì lại hoàn toàn không phải là điều mà ai cũng làm được.
Về nội dung, công trình này nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về những vấn đề chủ yếu đặt ra khi đi vào tìm hiểu chữ viết cổ truyền của các dân tộc Việt Nam, mà trọng tâm là chữ Nôm của người Việt. Nội dung chuyên luận trình bày trong 6 chương và một phụ chương. Ba chương đầu giới thiệu các hệ thống văn tự cổ truyền ở Việt Nam, tìm hiểu về nguồn gốc, sự hình thành chữ Nôm và xác định đặc trưng loại hình của nó trong sự đối chiếu với chữ Hán và các văn tự khác có liên quan trong khu vực. Hai chương Bốn và Năm đi sâu xem xét cấu trúc chức năng và cấu trúc hình thể của chữ Nôm Việt cùng những diễn biến của chúng qua thời gian. Chương cuối xem xét các chức năng xã hội và môi trường hành chức của chữ Nôm, vai trò của nó bên cạnh chữ Hán và chữ Quốc ngữ trong xã hội Việt Nam, quá khứ và hiện tại. Ngoài ra còn có một phụ chương để giới thiệu một số ý tưởng của các bậc tiền bối, mong muốn tạo lập các hệ thống chữ Việt bằng nét bút lông, mang dáng dấp của chữ Nôm, nhưng lại là văn tự ghi âm, cho thấy một nét đặc biệt trong tư duy văn tự học của tiền nhân.
Cuốn sách là một thành tựu nghiên cứu có bề dày và chiều sâu, vừa có “diện” vừa có “điểm”, chứa nhiều điều mới mẻ dựa trên cơ sở tích lũy và tổng kết tri thức khắp suốt xưa nay. Chính vì vậy, ngay sau khi vấn thế, cuốn sách đã được sử dụng làm tài liệu dạy học của ngành Hán Nôm nói riêng và ngành ngữ văn học nói chung ở các bậc Đại học, Cao học, và Nghiên cứu sinh ở nhiều đơn vị đào tạo.(1)
Vì vậy, học giới không mấy ai ngạc nhiên trước thông tin cuốn sách được trao Giải thưởng Nhà nước, thậm chí có người còn than tiếc cho rằng công trình ấy xứng đáng được trao giải thưởng ở cấp cao hơn. Bởi học giới biết rằng, con người ấy từ lâu đã khẳng định được tầm vóc tri thức và ảnh hưởng học thuật; công trình ấy đã được thừa nhận về tầm lí luận cũng như khả năng xây dựng khung khổ.
4. Những đạo hữu học thuật
Học giới Việt Nam đã thừa nhận vị trí hàng đầu của hai tượng đài ngôn ngữ học: GS. Cao Xuân Hạo (1930-2007) và GS. Nguyễn Tài Cẩn (1926-2011). Khi hai nhà khoa học trứ danh này lần lượt khuất bóng, đã có nhiều bài viết kỉ niệm về họ, mà hai bài “Hoài niệm...”(2) của GS Nguyễn Quang Hồng nằm trong số những bài đáng đọc nhất, vừa tình cảm vừa khoa học, toàn diện mà chi tiết, khúc chiết, mạch lạc và thích đáng trong đánh giá khoa học.
Nguyên nhân để hai bài “Hoài niệm...” ấy thành công, ngoài vốn tri thức chắc nịch và tình cảm sâu nặng của người viết đối với các đạo hữu, theo tôi, còn do sự tương đồng về quan điểm tiếp cận khi nghiên cứu ngôn ngữ văn tự học giữa ba nhà khoa học. Họ nằm trong số không nhiều người cùng sớm nhận ra sai lầm của tư tưởng “Âu tâm luận” (Eurocentrism) từng khá phổ biến trong nghiên cứu ngôn ngữ học nói riêng và nghiên cứu khoa học nói chung ở Việt Nam. Có lẽ chính vì vậy mà, trong danh tác Âm vị học và tuyến tính (bản tiếng Pháp năm 1985), GS Cao Xuân Hạo đã nhận xét về một công trình năm 1974 của GS Nguyễn Quang Hồng bằng những dòng rất trân trọng, mang tính nhận đồng trong tư tưởng phủ định “chiết đoạn luận” kiểu Châu Âu, tức là phê phán việc sử dụng lí thuyết âm vị học Châu Âu vốn chỉ phù hợp với các ngôn ngữ khuất chiết vào phân tích các ngôn ngữ đơn lập và chắp dính ở phương Đông như tiếng Trung, Việt, Nhật(3).
Đọc hai bài “Hoài niệm...” ấy, tôi thấy tâm đắc với hai từ láy mà GS Nguyễn Quang Hồng sử dụng. Ông phẩm bình hai cuốn chuyên luận về ngữ âm và ngữ pháp của GS Cao Xuân Hạo là "vạm vỡ", ông lại đánh giá các chuyên luận của GS. Nguyễn Tài Cẩn là "lực lưỡng". Ngẫm lại, cả ba nhà khoa học ấy dù có vóc dáng nhỏ gầy, nhưng đều "vạm vỡ" và "lực lưỡng" trong khoa học. Đó mới là điều khó đạt tới. Thiết nghĩ, cuốn Khái luận văn tự học chữ Nôm của GS Nguyễn Quang Hồng cũng đã đạt tới độ “vạm vỡ” và “lực lưỡng” như vậy, nên tôi xin phép mượn dùng hai từ láy trên để mô tả chính người đã từng sử dụng chúng một cách đắc địa. Giải thưởng Nhà nước này là sự khẳng định giá trị của cuốn sách và tầm vóc của nhà khoa học từ phía giới quản lí khoa học và công nghệ quốc gia, sau khi giới học thuật đã khẳng định từ trước./
Chú thích
Bài báo này được tác giả PGS.TS Nguyễn Tuấn Cường, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hán Nôm, viết năm 2017 khi GS. Nguyễn Quang Hồng được trao Giải thưởng Nhà nước về Khoa học và công nghệ với tác phẩm Khái luận văn tự học chữ Nôm của mình. Bài báo được đăng trên tạp chí Hán Nôm số 1 (140) -2017, chúng tôi xin đăng lại bài báo này tại đây với sự đồng ý của tác giả PGS.TS Nguyễn Tuấn Cường.
(1). Xem thêm 3 bài điểm sách đã công bố: (1) Nguyễn Tuấn Cường, “Đọc sách Khái luận văn tự học chữ Nôm” của GS.TSKH Nguyễn Quang Hồng”, Tạp chí Hán Nôm, số 4/2009, tr. 74-78. (2) Đinh Khắc Thuân, “Đọc sách Khái luận văn tự học chữ Nôm”, Ngôn ngữ và Đời sống, số 5/2009, tr. 44-45. (3) Trần Đình Sử, “Một đóng góp mới về nghiên cứu chữ Nôm”, Văn nghệ, số 27 (2579), thứ Bảy ngày 4/9/2009.
(2). Xem: (1) Nguyễn Quang Hồng, “Hoài niệm về anh Cao Xuân Hạo”, Ngôn ngữ và Đời sống, số 11/2007, tr. 38-39 (bản điện tử: http://ngonngu.net/?m=print&p=354). (2) Nguyễn Quang Hồng, “Hoài niệm về Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn”, Từđiển học và Bách khoa thư, số2/2011, tr. 78- 84 (bản điện tử: http://khoavanhoc.edu.vn/tintuc sukien/878-gstskh-nguyn-quang-hng).
(3). Cao Xuân Hạo, Âm vị học và tuyến tính: Suy nghĩ về những định đề của âm vị học đương đại, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2001, tr. 303-306.
“Citations coordinate distinct time-spaces, bringing them into a common relation of contiguity” (Silverstein 2005). Xin tạm dịch như sau: “Việc trích dẫn phối hợp những khoảng không-thời gian khác nhau, đưa chúng vào cùng một mối quan hệ chung, của sự đồng thời, kề cạnh.” Nữ Giới Chung đã tạo nên một không-thời gian kỳ lạ vào đầu thế kỷ 20, nơi tích hợp những trích dẫn từ những giai đoạn lịch sử khác nhau trên thế giới và Việt Nam, bởi những người nữ đã thụ hưởng một nền giáo dục pha lẫn Á-Âu. Nó là một không-thời gian đa dạng và sinh động như một montage điện ảnh được dàn dựng bằng những cú jump-cut ngang dọc chiều dài lịch sử. Sự đa dạng về mặt trích dẫn, cũng như cách sử dụng trích dẫn, khiến ta phải suy nghĩ lại về chữ “chung” trong Nữ Giới Chung, đặc biệt là về phạm vi của nó. Ở đây, “Chung” không phải là “Chung” một giọng nói, một thông điệp nhất quán sẵn có trong giới nữ Việt Nam. “Chung”/”Chuông” ở đây báo hiệu sự kiến tạo một không-thời gian, nơi những người nữ bước đến bên nhau cho một cuộc tao ngộ, để nhìn lại lịch sử, viết lại lịch sử và viết tiếp lịch sử đờn bà trong những trang sử Việt Nam và lịch sử thế giới. Vậy những thước phim lịch sử đã được các nữ sĩ của Nữ Giới Chung “cắt lại” như thế nào, và lồng ghép với câu chuyện Nữ Giới Chung ra sao.
Trích dẫn để làm gì?
Xin được bàn đôi chút về tính trích dẫn, “citationality”. Tính trích dẫn là tính căn bản của mọi ký hiệu, mà Derrida gọi là “iterability” của ký hiệu. Mọi ký hiệu đều sẵn sàng thoát khỏi hoàn cảnh phát ngôn, để đi đến một ngữ cảnh mới, nơi nó được trích dẫn. Việc trích dẫn đánh dấu chủ quyền của một lời nói, đưa lời nói thuộc về một người nói (speaking agent). Tuy nhiên trích dẫn đồng thời đưa lời nói và người nói vào một bối cảnh khác, nơi nó được dàn dựng và biểu diễn như một trích dẫn. Tuỳ theo sự dàn dựng, ta có thể có một diễn ngôn dàn dựng theo kiểu đa thoại, người này mượn lời và đáp lời người kia, giọng người và giọng mình được đánh dấu chủ quyền rõ ràng (”territorial mark”) bằng dấu ngoặc kép. Ta cũng có thể có một diễn ngôn độc thoại, tức người này đã “tiêu thụ” (”internalize”), lồng giọng người kia vào trong giọng mình, hay một diễn ngôn bán độc thoại, tức người này báo cáo lại những gì người kia nói (”reported speech”). Mục đích là để lời nói có gốc có ngọn (”having a traceable genealogy of thoughts”), để mượn cái uy của người khác mà củng cố cái uy trong lời nói của mình, để cái thấy của ta được bỗ trợ bởi cái thấy của người khác. Nếu việc học thuộc lòng thường được miêu tả như việc nội hoá, thẩm thấu (”internalize”), thì việc trích dẫn có thể được xem như sự xuất ra, “externalize”, để đối thoại và truy vấn nguồn gốc những suy nghĩ tưởng chừng là của mình. Để thêu lên những suy nghĩ mới, cần phải tháo dỡ những mối may cũ. Tuy nhiên, vào thời buổi đầu thế kỷ XX, việc truy cứu chỉ có thể dựa trên sách vở sẵn có, hoặc từ trí nhớ, vì vậy nên việc trích dẫn, không thể là một cử chỉ học thuật (”a scholarly/historiographical gesture”), nhằm đảm bảo tính chính xác về lịch sử (”a verifiable intellectual genealogy”), mà còn nên được hiểu như một cử chỉ biểu diễn, dàn dựng sân khấu (a “mise-en-scene”, a decorative act), nhằm kiến tạo ra một không-thời gian phảng phất lịch sử Đông Tây kim cổ (”history as an ambience”). Mục đích cho việc này là gì? Chúng ta có thể kiến giải rằng trong Nữ Giới Chung, Chung ở đây không phải một không-thời gian biệt lập chỉ có đàn bà đương đại nói chuyện với nhau, Chung ở đây không được cấu thành bởi sự tách riêng ra khỏi diễn ngôn của nam giới và sự co cụm lại của nữ giới. Chung ở đây gọi nữ giới đến đứng chung với thế giới, đứng chung với lịch sử được tạo nên bởi các giới, chứ không đứng riêng ra một mình.
Hãy xem sự biểu diễn trích dẫn sau:
Nguồn trích dẫn (speaking agent): Nguồn trích dẫn không phải lúc nào cũng là người, mà nếu là người thì cũng không cần có danh tính rõ ràng. Chúng ta đôi khi có “Ông Bội-Căn” (trích dẫn toàn danh), có “nhà danh sĩ bên Thái Tây” (Thái Tây, tức 泰西, chỉ các quốc gia tây phương, trích dẫn bán danh), có “danh sĩ nước Anh”. Chúng ta cũng có “sách nho”, có “chữ Tàu”, hoặc đôi khi chỉ có “sách” (trích dẫn vô danh). Chủ thể của phát ngôn không cần có một danh tính rõ ràng, mà có thể mang tính đại diện cho nền văn minh phương Tây (với vai ”danh sĩ”), hoặc đại diện cho trí tuệ nói chung (với vai “sách”). Quyền lực (”authority”) của trích dẫn nằm ở tính Tây phương, hoặc tính “đã được hợp thức hoá” (”officialized”), do được lưu truyền bằng phương tiện in ấn (”sách”), hoặc kiểm định qua sự truyền miệng rộng rãi (”vernacular literature”). Việc lưu truyền, kiến tạo tri thức không xảy ra ở mức độ đối thoại cá nhân, nơi việc trích dẫn có mục đích bảo vệ quyền sỡ hữu trí tuệ cá thể và tạo ra tương tác đối thoại giữa cá thể (”intersubjective dialogue”), mà ở đây ưu tiên việc đối thoại giữa những luồng văn hoá (”intercultural dialogue”), nơi các cá thể đóng vai trò đại diện cho các luồng văn hoá hơn là cho chính tư tưởng của họ.
Cách trích dẫn:
Ông Bội-căn sẽ được mở ngoặc chú thích bằng tên tiếng Anh ngay bên cạnh (”Roger Bacon”). Nhắc đến danh sĩ nước Anh thì nước Anh cũng được chú thích bằng phiên âm (”Anglé”). Điều đó minh chứng ở giai đoạn này, chữ Quốc ngữ chưa thể đứng riêng một mình, như một hệ thống ký hiệu được hoàn toàn phổ cập, với một mối liên hệ trực tiếp từ ký hiệu đến vật được ký hiệu (”direct connection between signs and referents”) mà cần được bỗ trợ, truân chuyển (”mediated”), “phụ đề” (”subtitled”), bởi những ngôn ngữ khác đang được sử dụng trong các môi trường giáo dục, hành chính khác nhau ở Việt Nam (bao gồm chữ Hán & chữ Pháp). Song song với môi trường giáo dục sử dụng, lưu hành các nguồn sách chữ Nho và chữ Pháp, các nguồn sách về tư tưởng, nhân vật lịch sử Tây Phương có khả năng đã được tiếp cận qua bản dịch chữ Hán, thay vì với văn bản gốc bằng tiếng Pháp hoặc tiếng Anh, vì vậy mới để lại những “dấu tích dịch thuật” song song (”Bội Căn”, “Roger Bacon”).
Giao thoa các luồng tư tưởng:
Vì cơ sở dữ liệu chưa hoàn chỉnh, việc số hoá còn dở dang, nên ở giai đoạn này chưa thể thống kê và phân loại được các nguồn trích dẫn chiếm số nhiều hay số ít. Tuy nhiên, điểm lại dữ liệu đã được số hoá, dựa trên biểu mẫu cỡ nhỏ (small sample), có thể từ các trích dẫn mà phân thành ra 3 luồng điển tích chính hay được sử dụng trong trích dẫn:
_ Điển tích văn minh châu Âu: bao gồm từ nền tảng tư tưởng-văn hoá Hy Lạp-La Mã cổ đại (Greek-Roman classicism) & Phục hưng (Renaissance)
_Điển tích Nho giáo: thường được đại diện bởi Mạnh-tữ, Khổng-tữ
_Điển tích lịch sử Việt: Hai Bà Trưng, Bà Triệu, công chúa Diệu Liên, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương
Những luồng điển tích trên phản ánh những nghiên cứu của ThS. Nguyễn Hoa Mai về lịch sử giáo dục nữ sinh tại Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX, với sự chuyển giao văn hoá qua sự tồn tại song song của nền giáo dục Nho học và Âu học: “Lịch sử chỉ quan tâm đến lịch sử nước nhà và Trung Hoa cổ đại. Văn chương ảnh hưởng của Trung Quốc lớn lao và học tập tư tưởng, văn chương Trung Quốc là chủ yếu. Nội dung chương trình giảng dạy các lớp của chương trình Pháp – Việt được áp dụng thống nhất, dù là ở Đồng Khánh hay ở Áo Tím. Học sinh học bằng tiếng Pháp tất cà các môn, nhưng điểm khác biệt với chương trình Pháp là có một số giờ tiếng Việt, từ 1 đến 2 giờ/tuần. Chương trình bậc cao đẳng tiểu học, gọi là thành chung gồm những môn thuộc các lĩnh vực chuyên môn như sau: Khoa học tự nhiên(toán, vật lý, hóa học, vạn vật); khoa học xã hội và nhân văn (Pháp văn, sử - địa, luân lý, Việt văn. Học sinh học sử - địa của Pháp và của Việt Nam).” Đặc biệt, qua hiện tượng viết-dịch song song qua nhiều tầng ngôn ngữ (”polyphonic discourse”), ta có thể thấy nền giáo dục thời Pháp thuộc đã sản sinh ra những cá thể tư duy đa ngôn ngữ (”multilingual subjects”) và kiến tạo ra những không-thời gian đa ngôn ngữ- đa văn hoá (multicultural space-time), mà tờ báo Nữ Giới Chung là một ví dụ. Sự đa ngôn ngữ trở thành một di sản văn hoá thuộc địa đa tầng (”the legacy of multilayered colonialism”) đến từ nhiều giai đoạn đô hộ khác nhau, và là một di sản đa sắc nghĩa (”ambivalent”).
Trích dẫn và viết lại lịch sử thế giới: Từ lịch sử danh nhân đến lịch sử thân mẫu
Xin được nói rõ thêm là “Nữ Giới Chung” là một tờ báo với sự góp giọng của nhiều giọng nữ, nên không có một cách hay một mục đích trích dẫn duy nhất. Ở đây chỉ mạn phép đào sâu vào cách trích dẫn trong một bài viết của chủ bút Sương Nguyệt Anh, không có tính đại diện cho toàn bộ tờ Nữ Giới Chung - bài “Thế lực người đờn bà”, đăng trên số thứ nhất.
Thế lực người đờn bà Có một nhà danh sĩ nước Anh (Anglé) nói rằng : Cái tay đưa võng cho con, ấy là tay cầm quyền cả thế giới (1) Lời đó, thiệt như vẻ được cái thế-lực của người đờn bà. Kia tài trai như ông Cai-Tán (Jules César) (2) oai-danh lừng lẩy, khắp cỏi châu Âu. Ông Á-lực sơn-đại, (Alexandre le Grand) (3) vùng vẩy ngang tàng, phía tây châu Á, rất đỗi con nít nghe tên phải nín khóc, mà cũng còn chưa có cái thế-lực ấy thay. Huống chi đờn-bà, ngoài mũi kim đường chỉ, đã không tài ngang trời độc, lại không sức đào núi xẻ sông, ai mà dè là một tay hóa-công-(4) nhỏ Thế-lực là gì? Là biểu sống được sống, biểu chết phải chết, cũng như nhà tôn-giáo : (5) sanh đặng hết thảy, duyệt đặng hết thảy vậy. Thế thì ngoài quyền lực Quân-chủ (6) lại có cái thế-lực lớn hơn nữa là gì ? Chánh là cái tay võng cho con đó. Gẫm từ thuở địa-cầu mới có nhơn-loại nhẩn nay, trắng, vàng, đen, đỏ, biết hằng-hà sa-số (7) nào là người; mà chưa thấy có ai trên trời sa xuống, dưới đất chung lên bao giờ Thế mới biết , không có đờn bà thì loài người ắt tiêu-duyệt, thế-giới hiu quạnh, như cù-lao hoang, đâu là nhà « Triết-học » (8) nhà « Văn-học » (9) nhà « Chánh-trị » (10) đâu là nhà « Kinh-tế », (11) nhà « Cách-tri» (12) nhà « Giáo-dục » (13) và hết thảy các hạng người ở trên trái đất này? Vậy đờn-bà ta cũng có thể nói được rằng: Phàm nhứt-thiết (14), những văn-minh hiện-tượng (15) trong thế-giới ngày nay, đều là con cháu nhà cả. Là vì sao ? Nghĩa có đờn-bà, mới sanh ra thánh-hiền, hào-kiệt mới có người tô-điểm vẻ non sông. Dẩu khéo tạc tượng như ông Lỗ-ban, (16) tài họa bình như ông Vinh-sĩ, (Léonard de Vinci) (17)cũng chẳng có thế gì mà chế tạo được ra như ngươi ta thiệt. Rất đổị muốn đoạt quyền tạo-hoá như người Âu-châu, đến cái thế-lực như rứa, hắc cũng phải chịu thua tay đờn-bà. Vậy thì thế lực đờn-bà ta; lớn lao biết dường nào? Song cái thế-lực ấy, không phải sang mới có, cũng không phải giàu mới có, vốn ông Tạo-vật đã để phần chung cho hết thảy bạn quần-xoa. Có cái thế-lực bà Mạnh-mẩu, thì ông Mạnh-tữ mới nên danh ông Mạnh-tữ; (l8) có cái thế lực bà mẹ ông Nả-phá-Luân (Na-po-léon) thì ông Nả-phá-Luân mới thành được ồng Nã-phá-Luân; (19) Xét trong sữ sách xưa nay, còn nhan nhản biết bao nhiêu mà kễ. Thương ôi! Đời xưa như thế, đời nầy có ai ? Thế lực tuy phần chung của mọi người, mà biết dùng ra, lại chẳng qua chỉ riêng về cho những nhà có học ! Chị em ta phải tính làm sao ? để cho thiên-hạ coi vào mới ngoan !... Chớ đừng nên bắt chước như ai, đem thế-lực, mà làm cho nghiêng thành nghiêng nước, cho đổ quán xiêu đình ,tan nhà. nát cữa. Ấy mới là khôn ! Ấy mới là tài, ấy mới là cái tay cầm quyền cả thế-giới.
S. NGUYỆT-ANH.