1. Giải thưởng Nhà nước trao cho một chuyên luận về chữ Nôm
Ngày 11/01/2017, Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký Quyết định số 104/QĐ-CTN tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh cho 9 công trình và cụm công trình Khoa học và Công nghệ (KH&CN) và Quyết định số 105/QĐ CTN tặng Giải thưởng Nhà nước cho 7 công trình và cụm công trình KH&CN, theo quy chế xét duyệt 5 năm một lần. Ngày 15/1/2017, tại Hội trường Bộ Quốc phòng (Hà Nội) đã diễn ra Lễ trao giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước về KH & CN đợt 5 cho các nhà khoa học ưu tú, tiêu biểu của cả nước. Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã đến dự buổi lễ và trao tặng giải thưởng cho các nhà khoa học được giải. Trong bài phát biểu tại buổi lễ, Chủ tịch nước ghi nhận: “Các công trình được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ đợt này là những công trình xuất sắc, tiêu biểu, được ứng dụng hiệu quả nhất, có ý nghĩa to lớn trong việc bảo vệ sức khỏe, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, nâng cao năng lực cạnh tranh, vị thế, trình độ khoa học và công nghệ của đất nước trong khu vực và trên thế giới”.
Cũng trong buổi lễ, ông Chu Ngọc Anh - Bộ trưởng Bộ KH & CN, Chủ tịch Hội đồng Giải thưởng cấp Nhà nước, cho biết: “Trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, là những thành tựu xuất sắc trong nghiên cứu về triết học, lịch sử và ngôn ngữ, trong đó làm rõ tầm cao tư duy của dân tộc Việt cũng như các giá trị, hạn chế và các bài học lịch sử quý báu mà ông cha ta để lại; là những nghiên cứu về chữ Nôm theo một khung lý thuyết mới, các thao tác tiếp cận mới, qua đó công trình được giới nghiên cứu trong và ngoài nước nhiệt liệt đón nhận, sử dụng với tần suất lớn trong các chuyên khảo nghiên cứu chữ Nôm, ngữ văn Hán Nôm ở Việt Nam cũng như nước ngoài hiện nay.”
Trong các công trình và tác giả được vinh danh đợt này có chuyên luận Khái luận văn tự học chữ Nôm (Nxb. Giáo dục, 2008) của GS.TSKH Nguyễn Quang Hồng - nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Viện NCHN). Đây là sự ghi nhận xứng đáng ở cấp quốc gia đối với một chuyên khảo ở tầm cao lí thuyết văn tự học của một nhà khoa học đầu ngành Hán Nôm cũng như ngôn ngữ văn tự học. Viện NCHN từng có một số cựu cán bộ viên chức được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước, nhưng họ đều là những người công tác tại Viện NCHN trong một thời gian không dài rồi chuyển sang đơn vị khác, và được giải thưởng với tư cách cán bộ của đơn vị khác. Vì vậy, có thể coi đây là giải thưởng Nhà nước đầu tiên được trao cho một nhà khoa học gắn bó phần lớn sự nghiệp với Viện NCHN. Theo nghĩa đó, giải thưởng cao quý này là một niềm vinh dự đối với Viện NCHN, đồng thời cũng là động lực, là nguồn động viên để các cán bộ viên chức Viện NCHN nỗ lực hơn nữa để đóng góp cho sự nghiệp khoa học và công nghệ.
2. GS.TSKH Nguyễn Quang Hồng: nhân vật học thuật “lực lưỡng”
Dù sinh ra (1939) và làm việc tại Việt Nam, nhưng Nguyễn Quang Hồng lại có được cơ duyên đào tạo trường kì ở những trung tâm học thuật nước ngoài ngay từ thủa sinh viên. Ông tốt nghiệp Cử nhân Ngữ văn tại Đại học Bắc Kinh (1965), tốt nghiệp Phó Tiến sĩ (nay là Tiến sĩ) Ngữ văn tại Đại học Quốc gia Moskva và Viện Đông phương học Liên Xô (1974), sau đó tốt nghiệp Tiến sĩ khoa học Ngữ văn tại Đại học Quốc gia Moskva (1985). Được đào tạo căn bản và thâu thái được tinh hoa của hai trung tâm khoa học Ngữ văn Đông và Tây thời danh kể trên, ông đã cho ra đời những công trình nghiên cứu ngữ văn Hán Nôm và ngôn ngữ học không lẫn vào đâu được. Đặc điểm bao trùm của những công trình ấy là tính lí thuyết cao, vấn đề nghiên cứu được triển khai một cách logic và hệ thống, lối hành văn chặt chẽ khoa học, nhưng không cố lên gân lên cốt, mà nhiều lúc hóm hỉnh, hấp dẫn.
Sau nhiều năm nghiên cứu và giảng dạy về ngôn ngữ và văn tự tại nhiều trường đại học và viện nghiên cứu chuyên ngành, ông đã “trình làng” nhiều tác phẩm then chốt: Văn khắc Hán Nôm Việt Nam (chủ biên, 1992), Âm tiết và loại hình ngôn ngữ (chuyên luận, 1994, 2001, 2012), Di văn chùa Dâu (chủ biên, 1996), Truyền kì mạn lục giải âm (biên khảo, phiên chú, 2001), Tự điển chữ Nôm (chủ biên, 2006), Kho chữ Hán Nôm mã hoá (đồng chủ biên, 2008), Khái luận văn tự học chữ Nôm (chuyên luận, 2008), Tự điển chữ Nôm dẫn giải (2 tập, 2014, gần 2.400 trang, công trình cá nhân), Âm tiết tiếng Việt và ngôn từ thi ca (viết cùng phu nhân là TS. Phan Diễm Phương, đang in). Ông còn là tác giả của hơn 100 bài nghiên cứu công bố trên các ấn phẩm chuyên ngành cả trong và ngoài nước. Ông cũng từng được mời thuyết trình và giao lưu khoa học tại Hoa Kì, Pháp, Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Hong Kong, Singapore.
3. Khái luận văn tự học chữ Nôm: tác phẩm học thuật “vạm vỡ”
Đặc trưng căn bản và tiên quyết của cuốn chuyên khảo này chính là tiền đề phương pháp luận lấy văn tự học làm bản vị. Đây là điểm cốt yếu và khác biệt của cuốn sách, bởi các chuyên khảo về chữ Nôm trước đây thường đặt vấn đề ngôn ngữ học lịch sử tiếng Việt lên trên vấn đề văn tự học khi tiếp cận kho tàng văn hiến chữ Nôm. Việc trả lại bản chất văn tự học cho hướng tiếp cận nghiên cứu chữ Nôm còn giúp cho cuốn sách, xét từ khía cạnh lịch sử văn hiến, khắc phục được nhược điểm cố hữu trong việc nghiên cứu chữ Nôm là thường quá chú trọng tới những văn hiến có niên đại sớm, mà xao lãng những văn hiến có niên đại muộn, khoảng từ thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX.
Từ tiền đề phương pháp luận trên, cuốn sách đã triển khai nghiên cứu một cách hệ thống và mang đậm tính lí luận. Trong tình trạng việc nghiên cứu Hán Nôm thường còn dừng lại ở mức độ miêu tả sự kiện, thì những nghiên cứu mang tính lí luận chuyên ngành của Nguyễn Quang Hồng lại hướng tới phân tích, giải thích sự kiện, và đó chính là điểm sáng nổi trội mà một lối tư duy thông thường nào đó hoàn toàn có thể phán rằng “những cái ấy ai chẳng biết!”. Nhưng để khái quát hóa “những cái ai chẳng biết” vốn lẻ tẻ và rời rạc ấy thành một hệ thống mang tính lí luận như những gì mà tác giả đã thực hiện trong các công trình của mình (tất nhiên không loại trừ cuốn sách này) thì lại hoàn toàn không phải là điều mà ai cũng làm được.
Về nội dung, công trình này nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về những vấn đề chủ yếu đặt ra khi đi vào tìm hiểu chữ viết cổ truyền của các dân tộc Việt Nam, mà trọng tâm là chữ Nôm của người Việt. Nội dung chuyên luận trình bày trong 6 chương và một phụ chương. Ba chương đầu giới thiệu các hệ thống văn tự cổ truyền ở Việt Nam, tìm hiểu về nguồn gốc, sự hình thành chữ Nôm và xác định đặc trưng loại hình của nó trong sự đối chiếu với chữ Hán và các văn tự khác có liên quan trong khu vực. Hai chương Bốn và Năm đi sâu xem xét cấu trúc chức năng và cấu trúc hình thể của chữ Nôm Việt cùng những diễn biến của chúng qua thời gian. Chương cuối xem xét các chức năng xã hội và môi trường hành chức của chữ Nôm, vai trò của nó bên cạnh chữ Hán và chữ Quốc ngữ trong xã hội Việt Nam, quá khứ và hiện tại. Ngoài ra còn có một phụ chương để giới thiệu một số ý tưởng của các bậc tiền bối, mong muốn tạo lập các hệ thống chữ Việt bằng nét bút lông, mang dáng dấp của chữ Nôm, nhưng lại là văn tự ghi âm, cho thấy một nét đặc biệt trong tư duy văn tự học của tiền nhân.
Cuốn sách là một thành tựu nghiên cứu có bề dày và chiều sâu, vừa có “diện” vừa có “điểm”, chứa nhiều điều mới mẻ dựa trên cơ sở tích lũy và tổng kết tri thức khắp suốt xưa nay. Chính vì vậy, ngay sau khi vấn thế, cuốn sách đã được sử dụng làm tài liệu dạy học của ngành Hán Nôm nói riêng và ngành ngữ văn học nói chung ở các bậc Đại học, Cao học, và Nghiên cứu sinh ở nhiều đơn vị đào tạo.(1)
Vì vậy, học giới không mấy ai ngạc nhiên trước thông tin cuốn sách được trao Giải thưởng Nhà nước, thậm chí có người còn than tiếc cho rằng công trình ấy xứng đáng được trao giải thưởng ở cấp cao hơn. Bởi học giới biết rằng, con người ấy từ lâu đã khẳng định được tầm vóc tri thức và ảnh hưởng học thuật; công trình ấy đã được thừa nhận về tầm lí luận cũng như khả năng xây dựng khung khổ.
4. Những đạo hữu học thuật
Học giới Việt Nam đã thừa nhận vị trí hàng đầu của hai tượng đài ngôn ngữ học: GS. Cao Xuân Hạo (1930-2007) và GS. Nguyễn Tài Cẩn (1926-2011). Khi hai nhà khoa học trứ danh này lần lượt khuất bóng, đã có nhiều bài viết kỉ niệm về họ, mà hai bài “Hoài niệm...”(2) của GS Nguyễn Quang Hồng nằm trong số những bài đáng đọc nhất, vừa tình cảm vừa khoa học, toàn diện mà chi tiết, khúc chiết, mạch lạc và thích đáng trong đánh giá khoa học.
Nguyên nhân để hai bài “Hoài niệm...” ấy thành công, ngoài vốn tri thức chắc nịch và tình cảm sâu nặng của người viết đối với các đạo hữu, theo tôi, còn do sự tương đồng về quan điểm tiếp cận khi nghiên cứu ngôn ngữ văn tự học giữa ba nhà khoa học. Họ nằm trong số không nhiều người cùng sớm nhận ra sai lầm của tư tưởng “Âu tâm luận” (Eurocentrism) từng khá phổ biến trong nghiên cứu ngôn ngữ học nói riêng và nghiên cứu khoa học nói chung ở Việt Nam. Có lẽ chính vì vậy mà, trong danh tác Âm vị học và tuyến tính (bản tiếng Pháp năm 1985), GS Cao Xuân Hạo đã nhận xét về một công trình năm 1974 của GS Nguyễn Quang Hồng bằng những dòng rất trân trọng, mang tính nhận đồng trong tư tưởng phủ định “chiết đoạn luận” kiểu Châu Âu, tức là phê phán việc sử dụng lí thuyết âm vị học Châu Âu vốn chỉ phù hợp với các ngôn ngữ khuất chiết vào phân tích các ngôn ngữ đơn lập và chắp dính ở phương Đông như tiếng Trung, Việt, Nhật(3).
Đọc hai bài “Hoài niệm...” ấy, tôi thấy tâm đắc với hai từ láy mà GS Nguyễn Quang Hồng sử dụng. Ông phẩm bình hai cuốn chuyên luận về ngữ âm và ngữ pháp của GS Cao Xuân Hạo là "vạm vỡ", ông lại đánh giá các chuyên luận của GS. Nguyễn Tài Cẩn là "lực lưỡng". Ngẫm lại, cả ba nhà khoa học ấy dù có vóc dáng nhỏ gầy, nhưng đều "vạm vỡ" và "lực lưỡng" trong khoa học. Đó mới là điều khó đạt tới. Thiết nghĩ, cuốn Khái luận văn tự học chữ Nôm của GS Nguyễn Quang Hồng cũng đã đạt tới độ “vạm vỡ” và “lực lưỡng” như vậy, nên tôi xin phép mượn dùng hai từ láy trên để mô tả chính người đã từng sử dụng chúng một cách đắc địa. Giải thưởng Nhà nước này là sự khẳng định giá trị của cuốn sách và tầm vóc của nhà khoa học từ phía giới quản lí khoa học và công nghệ quốc gia, sau khi giới học thuật đã khẳng định từ trước./
Chú thích
Bài báo này được tác giả PGS.TS Nguyễn Tuấn Cường, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hán Nôm, viết năm 2017 khi GS. Nguyễn Quang Hồng được trao Giải thưởng Nhà nước về Khoa học và công nghệ với tác phẩm Khái luận văn tự học chữ Nôm của mình. Bài báo được đăng trên tạp chí Hán Nôm số 1 (140) -2017, chúng tôi xin đăng lại bài báo này tại đây với sự đồng ý của tác giả PGS.TS Nguyễn Tuấn Cường.
(1). Xem thêm 3 bài điểm sách đã công bố: (1) Nguyễn Tuấn Cường, “Đọc sách Khái luận văn tự học chữ Nôm” của GS.TSKH Nguyễn Quang Hồng”, Tạp chí Hán Nôm, số 4/2009, tr. 74-78. (2) Đinh Khắc Thuân, “Đọc sách Khái luận văn tự học chữ Nôm”, Ngôn ngữ và Đời sống, số 5/2009, tr. 44-45. (3) Trần Đình Sử, “Một đóng góp mới về nghiên cứu chữ Nôm”, Văn nghệ, số 27 (2579), thứ Bảy ngày 4/9/2009.
(2). Xem: (1) Nguyễn Quang Hồng, “Hoài niệm về anh Cao Xuân Hạo”, Ngôn ngữ và Đời sống, số 11/2007, tr. 38-39 (bản điện tử: http://ngonngu.net/?m=print&p=354). (2) Nguyễn Quang Hồng, “Hoài niệm về Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn”, Từđiển học và Bách khoa thư, số2/2011, tr. 78- 84 (bản điện tử: http://khoavanhoc.edu.vn/tintuc sukien/878-gstskh-nguyn-quang-hng).
(3). Cao Xuân Hạo, Âm vị học và tuyến tính: Suy nghĩ về những định đề của âm vị học đương đại, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2001, tr. 303-306.
1. Lời dẫn
Trong số 56 dân tộc sống trên lãnh thổ Trung Quốc, thì Choang (壯 Zhuang) là dân tộc có số dân đông thứ hai (sau dân tộc Hán), có đến 15555820 người (theo số liệu điều tra năm 1990). Người Choang cư trú chủ yếu ở tỉnh Quảng Tây, một số ít ở tỉnh Quý Châu và Vân Nam. Đó cũng là địa bàn cư trú lâu đời của dân tộc này, mà về nguồn gốc là một chi nhánh trong cộng đồng các dân tộc Bách Việt thời cổ đại.
Nếu như trong cộng đồng Bách Việt có hai chi nhánh lớn nằm ở vùng cực Nam của khối này (bao gồm từ Quảng Tây đến Vân Nam ở Trung Quốc và Bắc Bộ, Trung Bộ của Việt Nam) thì đó là Tây Âu và Lạc Việt. Trên đại thể, người Choang cũng như người Tày, người Nùng ở Việt Nam, chủ yếu liên quan với nhóm Tây Âu, thuộc ngữ hệ Tai-Kadai; còn người Mường, người Việt (Kinh), vốn là thuộc ngữ hệ Nam Á (nhánh Môn-Khmer), sau một quá trình hòa nhập với các nhóm người Tày-Nùng và có thể cả Nam Đảo mà hình thành nên nhóm Lạc Việt. Chính từ mối quan hệ gần gũi về nguồn gốc cũng như về địa bàn cư trú như vậy, giữa hai ngôn ngữ Việt và Choang hẳn còn giữ lại ít nhiều những đơn vị ngôn ngữ tương đồng, dù xét về quan hệ cội nguồn hay quan hệ tiếp xúc ngôn ngữ.
Trên cơ sở nghiên cứu so sánh và đối chiếu một số tư liệu viết bằng chữ Nôm Việt và chữ vuông Choang, là những thứ văn tự cổ truyền của hai dân tộc này, tác giả bài này nhận thấy giữa hai ngôn ngữ đã và đang có không ít những ngữ tố gần âm gần nghĩa, có thể là cùng gốc Tai-Kadai, cũng có thể là do sự tiếp xúc vay mượn lẫn nhau. Mục đích của bài này chỉ là trình bày một danh sách những ngữ tố như vậy, nhằm cung cấp tư liệu tham khảo cho những cuộc khảo cứu có liên quan.
Trong danh sách này, các ngữ tố tương ứng giữa Việt (V) và Choang (Zhuang: Z) sẽ được trình bày theo mấy thông tin như sau:
(1) Chữ viết hiện hành (theo mẫu tự La-tinh). Điều cần lưu ý ở đây là chữ Choang dùng các chữ cái phụ âm ở cuối âm tiết để ghi thanh điệu, chứ không dùng dấu thanh như chữ Quốc ngữ của tiếng Việt. Vì lý do kỹ thuật, ở đây không tiện dùng hình thức văn tự cổ truyền (chữ Nôm Việt và chữ vuông Choang) để ghi các ngữ tố đang xét như trong các tư liệu gốc và các tự điển đã ghi.
(2) Phiên âm theo ký hiệu ghi âm quốc tế IPA. Đối với các ngữ tố Choang, công việc này hoàn toàn dựa vào cuốn Cổ Tráng tự tự điển. Đối với các ngữ tố Việt, cố gắng theo cách ghi tương đối phổ biến. Tuy nhiên, để bớt phần phức tạp, xin tạm lược bỏ các dấu phụ trỏ âm lướt và trỏ nguyên âm đôi, “âm đệm” (medial) [-ṷ-] sẽ được ghi bằng ký tự [w]. Khi có sự đối lập “ngắn” và “dài” ở nguyên âm tạo đỉnh âm tiết, sẽ dùng dấu “ngắn” [ˇ] cho tiếng Việt và dấu “dài” [:] cho tiếng Choang. Dùng chữ số để ghi thanh điệu (trong đó số 7 và 8 là những số ghi thanh “nhập”).
(3) Nghĩa cơ bản trùng hợp giữa hai ngôn ngữ (bỏ qua những nét nghĩa chênh nhau). Chữ idem dùng để trỏ cùng nghĩa như ngữ tố Việt. Chủ yếu sử dụng các tự điển để chua nghĩa cho các ngữ tố đang xét.
(4) Dẫn ra các câu thí dụ (tận dụng các tự điển đang có) và nếu cần cho thêm thuyết minh bổ sung. Một số trường hợp có thể tạm khuyết thí dụ.
(5) Ký hiệu <> dùng để trỏ quan hệ đối chiếu và ngăn cách dẫn liệu từ hai ngôn ngữ đang xét.
Những ngữ tố mà chúng tôi nhận thấy rõ là cả hai ngôn ngữ Việt và Choang đều tiếp nhận từ Hán ngữ, dù đã được đồng hóa cao độ, thì đều không đưa vào danh sách những ngữ tố cùng gốc Việt – Choang được xem xét ở đây.
2. Ngữ liệu đối chiếu
(V) au [ău1]. Màu sắc (thương là đỏ) tươi thắm. Đôi má đỏ au <> (Z) aeuj [au3] . Màu tím. Va aeuj ‘hoa tím’.
2. (V) ba [ba1]. Trong ba ba: loài rùa ở nước ngọt, mai trơn. <> (Z) ba [pa1]. Idem.
3.(V) ban [ban1]. Một khoảng thời gian trong ngày. Ban trưa. Ban chiều. <> (Z) ban [pa:n1]. Idem. Ban ringz (ban trưa).
4. (V) bậc [bɤ̆k8 ].Tầng, nấc, ngôi thứ. Bậc thang. Bậc thềm. <> (Z) mbaek [bak7] : Idem. Aen lae neix miz caet mbaek ‘Vậy là có bảy bậc’.
5. (V) bầu [bɤ̆u2] / bù [bu2]. Trái bầu, vỏ trái bầu, vật hình trái bầu.<>(Z) mbaeuj [bau3] / byuz [pju-2]. Idem. mbaeuj laeuj ‘bầu rượu’.
6. (V) bầy [bɤ̆i2]. Đám đông động vật hoặc người. Lũ, nhóm. Bầy thú, bầy chim, bầy trẻ con. <> (Z) mbaiz [ba:i2]. Idem. mbaiz moz ‘một bầy bò’.
7. (V) bèo [bƐu2]. Loài thực vật sống nổi trên nước. Băm bèo, thái rau. Rẻ như bèo. <> (Z) biuz [pi:u2]. Idem. Rin cauh biuz mbouj sanq ‘ném đá khó bề khiến cho bèo tan’.
8. (V) bẻo [bƐu3]. Trong chà bẻo, chèo bẻo: Tên một loài chim, lông đen, đuôi dài, chẻ thành hai nhánh. <> (Z) beuj [pe:u3]. Trong ciq beuj: Idem.
9. (V) bỏ [bɔ3]. Đặt, để vật vào nơi nào đó. Tiền bỏ ống. <> (Z) box [po4]. Idem. Dawz gaeu box gang ‘bỏ gạo vào chum’.
10. (V) bóc [bɔkp7]. Lột bỏ lớp vỏ ngoài. Bóc lạc. Bóc ngắn cắn dài. <> (Z) bok [po:k7]. Cởi bỏ lớp bọc ngoài. Bok ndang ‘cởi áo’.
11. (V) bón [bɔn5]. Đút cho ăn dần từng tí một. Bón trẻ ăn. Bóm từng thìa cháo cho người ốm. <>(Z) bonj [po:n3]. Idem. bonj lungdik ‘bón trẻ ăn’.
12. (V) bọn [bɔn6]. Một nhóm người, một lũ người. Bọn trẻ. Bọn con buôn. <> (Z) mbongh [bo:ŋ6]. Một số đông người. mbongh mawz ‘lũ chúng mày’.
13. (V) bọt [bɔt6]. Bong bóng nước nhỏ li ti. Bọt bèo. <> (Z) foed [fot8]. Idem. Foed fauz ‘bong bóng nước’.
14. (V) bô [bo1]. Trong bô bô: Nói to, không giữ mồm giữ miệng. Bô bô cái mồm. <> (Z) boq [po5]. Idem. Gangj boq ‘nói phét, ba hoa’.
15. (V) bố [bo5]. Người cha. Con trai giống cha. <> (Z) boh [po6]. Idem. De dwg boh gou ‘Ông ấy là bố tôi’.
16. (V) bớt [bɤt7]. Làm cho ít đi, giảm thiểu. Bớt ăn bớt mặc. <> (Z) mbaet [bat7]. Idem. Mbaet gwn mbaet yungh ‘bớt ăn bớt tiêu’.
17. (V) bớt [bɤt7]. Vết sạm hiện rõ trên da. Trên cánh tay có cái bớt. <> (Z) mbad [ba:t8] Idem. Ga hưnj mbad ‘chân lên nhọt’.
18. (V) buôn [buon1]. Mua để bán lại lấy lãi. Làm nghề buôn bán. <> (Z) buenq [pu:n5]. Idem. Guh cangh buenq ‘buôn bán nhỏ, buôn vặt’.
19. (V) bừa [bɯa2]. Nông cụ kéo lê, làm cho đất phẳng và sạch cỏ. Con trâu đi bừa. <> (Z) bw [phɯ1]. Idem.
20. (V) bươn [bƜɤn1]. Đi vội. Lang bạt khắp nơi. Bươn chải. Bươn bả. <> (Z) banh [pa:n6]. Đi lung tung, lang bạt.
21. (V) bương [bɯɤŋ1]. Loài tre ống to và thẳng. Ống đựng bằng lóng cây này. Xách bương đi tưới rau. <> (Z) mbaengq [baŋ5]. Idem. mbaengq cuk ‘ống bương đựng cháo’.
22. (V) bứt [bƜt7]. Dùng tay làm cho đứt lìa. Bứt cỏ, bứt hoa. <> (Z) mbaet [bat7] / mbit [bit7]. Hái, ngắt. Mbaet byaek ‘hái rau’.
23. (V) cá [ka5]. Động vật có xương ở dưới nước, thở bằng mang. Cá chậu chim lồng. <> ca [ɕa1]. Idem.
24. (V) cái [kai5]. To, lớn, hàng đầu. Chiêc trống cái. Ngón chân cái. <> (Z) gaij [ka:i3]. Idem.
25. (V) cái [kai5]. Tiếng trỏ đơn vị vật thể. Cái thì đỏ, cái thì vàng, cái nào cũng đẹp. <> gaiq [ka:i5]. Idem. Gaiq neix ‘cái này’.
26. (V) cám [kam5]. Chất bột do lớp vỏ lụa hạt gạo vỡ vụn ra khi giã. Cho lợn ăn cám. <> (Z) raemz [ɣam2]. Idem. Miz raemz ndei ciengx mou ‘có cám để nuôi lợn’.
27. (V) cạo [kau6]. Dùng dao làm đứt sạch lông hoặc lớp vỏ ngoài. Đầu cạo trọc lóc. Cạo khoai. <> gauq [ka:u5]. Idem. Gauq cienj ‘dao cạo’.
28. (V) cày [kăi2]. Nông cụ có cán gỗ và lưỡi sắt, cắm và đẩy đi để lật xới đất. Cày sâu cuốc bẫm. Con trâu đi trước, cái cày đi sau. <> (Z) cae [ɕai1]. Idem. Fag cae ‘cái cày’ . Haet cae moux geij naz ‘một buổi sáng cày được hơn mẫu ruộng’.
29. (V) cằm [kăm2]. Phần dưới cùng của khuôn mặt. Tay chống cằm. <> (Z) giemz [ki:m2]. Idem. Giemz zhangz ‘cái cằm’.
30. (V) cặp [kăp8]. Thành đôi. Một cặp vợ chồng. <> gaep [kap7]. Kết thành một đôi. Dox gaep guh gvan baz ‘kết với nhau thành cặp vợ chồng’.
31. (V) cầm [kɤ̆m2]. Nắm, giữ trong tay. Hai tay cầm bốn trái dưa. <> (Z) gaem [kam1]. Idem. Dawz vaiz aeu gaem boek ‘giữ trâu phải cầm lấy dây chão’.
32. (V) chà [ca2]. Cành cây nhiều nhánh nhỏ, dùng để rào hoặc thả dưới nước cho cá đến ở. Thả chà (trà). <> (Z) cah [ɕa6]. Nhành cây gai. Rào giậu. Gunz bya miz cah lai ‘trên núi có nhiều cây gai’. Cah suen byaek ‘rào vườn rau’.
33. (V) chạc [cak8]. Dây bện. Xỏ chạc vào mũi trâu. <> (Z) cag [ɕa:k8]. Idem. Cag gyang ‘dây bện bằng xơ cọ’.
34. (V) chạm [cam6]. Khắc trổ trên đồ vật. Chạm tủ chè. <> (Z) camx [ɕa:m4]. Idem. Camx sigbei ‘chạm / khắc bia đá’.
35. (V) chang [caŋ1]. Sáng trưng, sáng chói. Chói chang. Nắng chang chang. <> (Z) cangj [ɕaŋ3]. Idem. Ndong cangj ‘sáng choang’.
36. (V) chão [cau4]. Dây bện loại to, bền. Dai như chão. <> (Z) caeuz [ɕau2]. Dây xỏ mũi trâu. Dawz vaiz aeu gaem caeuz ‘giữ trâu phải nắm lấy chão’.
37. (V) cháo [cau5]. Món ăn nấu loãng từ gạo hoặc bột. Cơm ráo cháo nhừ. <> caux [ɕa:u4]. Cơm (?). Gin caux ‘ăn cơm’.
38. (V) chạy [căi6]. Di chuyển nhanh bằng đôi chân. Sấm đằng đông vừa trông vừa chạy. <> (Z) caij [ɕa:i3]. Idem.
39. (V) chăng [căŋ1] / giăng [zaŋ1]. Vây bủa. Con nhện giăng tơ. <> (Z) cang [ɕa:ŋ1]. Idem. Bae dah cang bya ‘đi sông bủa (giăng) cá’.
40. (V) chặp [căp6]. Một chốc lát. Trời mưa một chặp rồi tạnh ngay. <> (Z) yaep [jap7]. Idem. Gou yaep ndeu menh bae ‘Tôi đợi một chốc rồi đi’.
41. (V) chậm [cɤ̆m6]. Không nhanh, tốc độ thấp. Trâu chậm uống nước đục. <> (Z) yaem [jam1]. Idem. Mwngz yaem yaem byaij ‘Anh đi từ từ nhé’.
42. (V) chật [cɤ̆t8]. Nhỏ hẹp, không đủ chỗ chứa. Phố chật người đông. <> (Z) caenz [ɕan2]. Chật chội, hẹp hòi. Sim caenz ‘bụng dạ hẹp hòi’.
43. (V) chen [cƐn1]. Lấn , lách giữa đám đông. Người đi quấn áo chen chân. <> (Z) caenx [ɕan4]. Idem. Caenz haeuj bae yawj ‘chen vào xem’. Ngoenz hauw vunz caenz lai ‘Ngày chợ phiên người chen chúc nhau’.
44. (V) chếch [cec7]. Lệch, không chính giữa. Nhìn chếch sang bên trái. <> (Z) caek [ɕak7]. Idem. Aen daiz neix cuengq caek loh ‘chiếc bàn này lệch rồi’.
45. (V) chênh [ceɲ1]. Không ngang bằng, không bằng phẳng. Hai đứa chênh nhau vài tuổi. Bàn kê chênh. <> (Z) ceng [ɕe:ŋ1]. Idem. Ceng ndaej gyae ‘chênh nhau khá xa’.
46. (V) chóc [cɔkp7]. Trong chim chóc. Chim chóc đầy rừng. <> (Z) roeg [ɣok8]. Idem. Duz roeg douh gwnz faex’chim đỗ trên cây’ / cok [ɕo:k7]. Chim sẻ. Roeg cok youq lai yiemh guh rongz ‘chim sẻ làm tổ dưới mái hiên’.
47. (V) chọc [cɔkp8]. Đâm. Đẩy mạnh vào đối tượng bằng vật thẳng và cứng. Chọc quả bưởi trên cây. Chọc tiết lợn. (Z) coeg [ɕok8]. Idem. Deng oen coeg haeuj fwngz ‘bị gai đâm vào tay’.
48. (V) chớ [cɤ5]. Đừng, không nên. Ai ơi chớ bỏ ruộng hoang. <> (Z) caej [ɕai3]. Idem. Caej luenh yungh cienz ‘chớ nên tiêu tiền bừa bãi’.
49. (V) chú [cu5]. Em trai của cha. Nó lú có chú nó khôn. <> (Z) cuj [ɕu3]. Idem.
50. (V) chuối [cuoi5]. Loài cây nhiệt đới, thân cây là các bẹ lá ôm nhau, cho quả thành buồng. <> (Z) gyoij [kjo:i3]. Idem.
51. (V) cong [kɔŋm1]. Dáng uốn vòng, không thẳng, không gấp khúc. Cành cây cong. <> (Z) goeng [koŋ5]. Idem. Rap naek hanz ci goeng ‘gánh nặng đến nỗi đòn gánh cong cả xuống’.
52. (V) còng [kɔŋm2]. Lưng khom, lưng gù. Bà Còng đi chợ. <> (Z) gungx [kuŋ4]. Idem. Hwet gungx ‘lưng còng, lưng gù’.
53. (V) cóng [kɔŋm5]. Tê cứng vì rét. Rét quá, cóng cả tay. <> (Z) gongj [ko:ŋ3]. Idem. Fwngz gongj ‘cóng cả tay’.
54. (V) cổ [ko3]. Phần cơ thể nối giữa đầu và mình. Hươu cao cổ. Một cổ hai tròng. <> (Z) goz [ku1]. Idem.
55. (V) cúi [kui5]. Đầu và cổ gục xuống. Cúi chào. Cúi mặt làm thinh. (V) goz [ku1]. Idem.
56. (V) của [kua3]. Đồ vật và tiền bạc thuộc sở hữu của ai đó. Của ăn của để. <> goz [ku6]. Idem. Trong guh gaiq ‘của cải, đồ đạc’.
57. (V) cuốc [kuok7]. Dụng cụ đào xới đất. Vác cuốc ra vườn cuốc đất. <> (Z) guek [ku:k7] / gvak [kwa:k7]. Idem. Dawz guek bae guek namh ‘Mang cuốc đi cuốc đất’.
58. (V) cụt [kut8]. Thiếu hụt, mất đi đoạn cuối. Chó cụt đuôi. Chim cánh cụt. <> (Z) gud [kut8]. Idem. Ma rieng gud ‘chó đuôi cụt’.
59. (V) cứ [kɯ5]. Vẫn giữ ý định hay hành động như cũ. Đừng sợ, cứ nói. Nó vẫn chứng nào tật ấy. <> (Z) gwq [kɯ5]. Idem. De gwq riu ‘nó vẫn cứ cười’.
60. (V) cứng [kɯŋ5]. Rắn chắc. Chân cứng đá mềm. <> (Z) geng [ke:ŋ1]. Idem. Bya dai ndang geng ‘cá chết thì thân nó cứng’.
61. (V) dài [zai2]. Có trường độ tương đối lớn. Dài lưng tốn vải. <> (Z) raez [ɣai2]. Idem. Diuz cag neix caen raez ‘sợ dây thừng này dài’.
62. (V) dặm [zăm6]. Quảng đường, bước đường. Dặm về còn xa. <> (Z) yamq [ja:m5]. Bước chân, bước đi. Song yamq roen ‘hai bước chân’. Yamq din ‘dấn bước’.
63. n(V) dâm [zɤ̆m1]. Màu đen. Chỉn thấy cái hạc dâm bay liệng. <> (Z) ndaem [dam1]. Idem. Naij ndaem lumj dukrek ‘mặt đen như giẻ lót nồi’.
64. (V) dần [zɤ̆n2]. Đồ đan bằng nan tre, có lỗ nhỏ, dùng làm sạch gạo sau khi xay lúa. Nomg nia thúng mủng dần sàng. <> (Z) ranz [ɣan2]. Idem. Ndaw ranz rang mbouj lad ‘Trong nhà dần sàng đều chẳng có’.
65. (V) dâng [zɤ̆ŋ1]. Đưa lên cúng, tặng một cách cung kính. Làm lễ dâng hương. <> (Z) daengj [taŋ3]. Idem. Daengj cogoeng ‘dâng cúng tổ tiên’.
66. (V) dè [zɛ2]. Tự hạn chế, tằn tiện trong khi dùng. Ăm tiêu dè sẻn. <> (Z) ce [ɕe1]. Idem. Ciem ce ‘kiệm dè’.
67. (V) dẹp [zɛp8]. Thu gọn vào một chỗ hoặc bỏ đi. Dọn dẹp nhà cửa. <> (Z) caeb [ɕap8]. Idem. caeb conz doxgaiq ‘dọn dẹp đồ đac’.
68. (V) diều [zieu]. Diều hâu, loài chim to, thường bắt gà con ăn thịt. <> (Z) yiuh [ji:u6]. Idem.
69. (V) dỏ [zɔ3]. Trong dòm dỏ: dòm ngó vẻ dò xét. Dòm dỏ nhà người ta. <> (Z) yoj [jo3]. Dò xem. Gou bae yoj gaeuj ‘tôi đi ngó xem’.
70. (V) dòm [zɔm2]. Nhìn qua chỗ hở, vẻ dò xét. <> Bình dưa lọ muối chắt chiu nom dòm. <> (Z) ndomq [do:m5]. Idem.
71. (V) dọn [zɔn6]. Thu xếp, gom dồn lại. Thu dọn đồ đạc. Dọn dẹp nhà cửa. <> (Z) conz [ɕon2]. Idem. Ndaw ranz aeu caeb conz ‘Dọn đồ đạc trong nhà lại’. Dawz gij bwnh conz ndei Thu dọn chỗ phân bón kia lại’.
73. (V) dựng [zɯŋ6]. Đặt vật chiều thẳng đứng. Dựng cột nhà. <> (Z) daengj [taŋ3]. Dawz faex daengj hwnjdaeuj ‘Dựng khúc gỗ này lên’.
74. (V) đàng [daŋ2] / đường [dɯɤŋ2]. Lối đi lại. Đi một ngày đàng, học một sàng khôn. <> (Z) dangz [ th a:ŋ2]. Idem.
75. (V) đào [dau2]. Dùng dụng cụ moi đất lên. Đào củ mài. <> (Z) daeuq [tau5]. Idem. Daeuq duh namh ‘đào củ lạc’.
76. (V) đạp [dap8]. Giẫm chân lên. Chân đạp lên sỏi đá. <> (Z) dab [ta:p8]. Idem. Din dab hwnj daengq ‘chân đạp lên ghế’.
77. (V) đằn [dăn2]. Dùng sức hoặc vật nặng đè xuống. Khúc gỗ đằn lên chân. <> (Z) daenz [tan2]. Idem. Aeu rinbya daeuj daenz ‘Lấy đá đằn lên’.
78. (V) đâm [dɤ̆m1]. Va chạm mạnh, húc vào. Hai con trâu đâm nhau. <> (Z) daemj [tam3]. Idem. Vaiz dox daemj ‘trâu húc nhau’ / daem [tam1]. Va phải Haet dox daemj , haemh dox dengj ‘sáng va tối đụng’.
79. (V) đâm [dɤ̆m1]. Chích vào, thọc vào. Kim đâm vào tay. <> (Z) ndaemq [dam5]. Idem. Gaj mou ciuq hoz ndaemq ‘đâm thẳng vào cổ họng con lợn’.
80. (V) địu [diu6]. Dùng túi mang theo. Địu con lên rẫy. <> (Z) diuj [thi:u3]. Mang theo. Mungz diuj daeh ‘Tay mang túi vải’.
81. (V) đọi [dɔi6]. Chén, bát ăn cơm. Miếng khi đói bằng đọi khi no. <> (Z) duix [tu:i4]. Idem.
82. (V) đọt [dɔt8]. Ngọn, búp lá. Đọt chuối.<> (Z) dug [tuk8]. Idem. Song ~ byaek ‘hai đọt rau’.
83. (V) đồ [do2]. Vật dụng. Đồ đạc trong nhà. <> (Z) dox [to4]. Idem. Trong doxgaiq ‘đồ đạc’.
84. (V) đỗ [do4] / đậu [dɤ̆u6]. Dừng, nghỉ lại. Chim đỗ trên cành. <> (Z) duh [tu6] / douh [tou6]. Idem. Duzroeg duh gwnz faex ‘chim đỗ trên cành’.
85. (V) đồi [doi2]. Nơi đất đá nổi cao. Ngọn đồi trọc. <> (Z) ndoi [do:i1]. Idem. Soengq gvaq ndoi gvaq ndoeng, de song boux nanz liz ‘Tiễn nhau qua đồi lại qua rừng, hai người vẫn khó lòng chia tay’.
86. (V) đốn [don5] / đẵn [dan4]. Chặt cây, ngã gỗ. Đốn cây. Chém tren đẵn gỗ trên ngàn. <> (Z) donj [to:n3]. Chặt khúc. Go faex donj geij geh ‘một cây chặt thành mấy khúc’.
87. (V) đồng [doŋ2]. Vùng đất cày cấy, trồng trọt. Cày đồng đang buổi ban trưa. <> (Z) doengh [toŋ6]. Idem.
88. (V) đứt [dɯt7]. Lìa ra, rời ra. Nòng nọc đứt đuôi. <> (Z) daek [tak7]. Idem.
89. (V) éo [ɛu5]. Màu xanh sáng. Xanh éo. <> (Z) heu [he:u1]. Idem. Byaek heu ‘bắp cải xanh’.
90. (V) ếch [ec7]. Sinh vật cùng loài với nhái mà to hơn, ở ao hồ. Ếch ngồi đáy giếng. <> (Z) aek [ak7]. Idem.
91. (V) gà [ɣa2]. Loài gia cầm, con trống gáy về sáng. Con gà cục tác lá chanh.<> (Z) gaeq [kai5]. Idem. ~ boux ‘gà trống’.
92. (V) gác [ɣak7]. Trong gốc gác: nguồn gốc, lai lịch. Gốc gác nhà ta ở Hà Tĩnh. <> (Z) rag [ɣa:k8]. Phần rễ của cây. Rag faex ‘rễ cây’.
93. (V) gái [ɣai5]. Người thuộc giới nữ. Sinh được một gái một trai. <> (Z) gaij [kha:i3]. Idem.
94. (V) gạo [ɣau6]. Nhân hạt lúa, chứa tinh bột. Thóc cao gạo kém. <> (Z) gaeuj [khau3]. Idem. Gaeuj nu ‘gạo nếp’.
96. (V) gạo [ɣau6]. Cây cùng họ với cây gòn, cao to, hoa đỏ, quả có xơ bông. Đầu làng có cây gạo. <> (Z) reux [ɣe:u4]. Idem. Maex reux ‘cây gạo’. Va reux ‘hoa gạo’.
97. (V) gàu [ɣău2]. Chất cáu bẩn từ da đầu. Đầu có nhiều gàu. <> (Z) raeu [ɣau1]. Idem. Gwnz gyaeuj miz raeu ‘trên đầu có gàu’.
98. (V) gằm [ɣăm2]. Cúi mặt yên lặng. Xấu hổ, cúi gằm mặt xuống. <> (Z) gaemz [kam2]. Idem. gaemz gyaeuj ‘cúi đầu’.
99. (V) gắp [ɣăp7]. Dùng kẹp hay đũa cặp lấy vật gì. Gắp lửa bỏ tay người. <> (Z) gip [kip7]. Gắp, nhặt. Gip haex vaiz ‘gắp/nhặt phân trâu’.
100. (V) gặp [ɣăp8]. Cùng thấy mặt nhau tại một nơi. Người đâu gặp gỡ làm chi. <> (Z) roeb [ɣop8]. Idem. Roeb sou youq Namningz ‘gặp các ông ở Nam Ninh’.
101. (V) gắt [ɣăt7]. Nồng đậm quá mức, gây cảm giác khó chịu. Nước mắm mặn gắt. <> (Z) gaet [kat7] / get [ke:t7]. Idem. Gij laeuj neix gaet lai ‘rượu này gắt quá’.
102. (V) gật [ɣɤ̆t8]. Gục đầu ngẩng lên, tỏ ý tán đồng. Anh ấy gật một cái là xong ngay. Ông ta gật gù tán thưởng. <> (Z) ngaek [ŋak7]. Trong ngaek gyaeuj ‘gật gù’.
103. (V) gâu [ɣɤ̆u1]. Tiếng chó sủa. Chó sủa gâu gâu. <> (Z) raeuq [ɣau5]. Idem. Ma raeuq ‘chó gâu’.
104. (V) ghé [ɣɛ5]. Liếc mắt nhìn xéo. Ghé mắt trông lên thấy bảng treo. <> (Z) rez [ɣe2]. Idem. Lwgda rez gvaqbae ‘ghé mắt nhìn’.
105. (V) giàm [zam2]. Lồng chim. Nào ai đan giậm giật giàm bỗng dưng. <> (Z) camj [ɕa:m3]. Lồng gà bằng tre. Aeu camj daeuj camj gaeq ‘mang lồng tới nhốt gà’.
106. (V) giạm / dạm [zam6]. Ướm hỏi trước. Giạm vợ cho con . <> (Z) cam [ɕa:m1]. Xin hỏi. cam nuengx bae gizlawz ‘xin hỏi cô nàng đi đâu vậy’.
107. (V) giàn [zan2]. Mặt bằng được kê dựng lên cao. Giàn mướp. <> (Z) canz [ɕa:n2]. Dak haeux youq gwnz canz ‘trên giàn đang phơi thóc’.
108. (V) giày [zăi2]. Đồ dùng có đề mang kín bàn chân. Giày da Nam Định. <> (Z) yaiz [ja:i2]. Idem. yaiz baengz ‘giày vải’.
109. (V) giặm [zăm6]. Trồng tỉa xen vào chỗ trống. Giặm mạ vào ruộng. <> (Z) semz [θe:m2] / comj [ɕo:m3]. Idem. semz gyaj ‘giặm mạ’. Gumz lawz noix cix comj ‘mảnh đất còn trống kia cần phải cấy giặm mạ vào’.
110. (V) giắt [zăt7]. Nước đái tháo dây dưa từng tí một. Đái giắt. <> (Z) yaet [jat7]. Idem. Nyouh yaet ‘đái giắt’.
111. (V) giặt [zăt8]. Giũ quần áo với nước cho sạch. Nước trong, ta giặt yếm.<> (Z) saeg [θak8]. Idem. Bae haenz dah saeg buh ‘ra sông giặt áo’.
112. (V) giấm [zɤ̆m5] / rấm [ʐɤ̆m5]. Giữ, giấu kín, ủ kín. Giấm xoài cho chín. Giấm giúi trao cho nhau. <> (Z) yaem [jam1] / yaemh [jam6]. Ngầm, lén. Aeu lwgda dox yaem ‘đưa mắt ngầm mách bảo nhau’. Gou yaemh yaemh daengz henz mwngz ‘Tớ len lén đến sát bên cạnh’.
113. (V) giậm / dậm [zɤ̆m6]. Nện bàn chân xuống đất. Giậm chân kêu tời. <> (Z) caemq [ɕam5] / daemh [tam6]. Idem. Caemq din ‘giậm chân’. Lwg nyez fat heiq caemq caemq daenh daenh ‘thằng bé bực tức liên tục giậm chân’.
114. (V) giậm [zɤ̆m6]. Đồ đan bằng tre để bắt cá. Đánh giậm. Nào ai đan giậm giật giàm. <> (Z) yaemz [jam2]. Vó đánh cá. Aeu saeng bae yaemz bya ‘mang vó đi đánh bắt cá’.
115. (V) giấu [zɤ̆u5]. Cất giữ kín. Giấu kín mọi chuyện. <> (Z) caeu [ɕau1] / yaeuj [jau3]. Cất giữ. Yaeuj ceh fag guh faen ‘cất giữ những hạt thóc chắc mẩy để làm giống’.
116. (V) giun [zun1]. Loài trùng có đốt, sống chui dưới đất. Con giun xéo lắm cũng quằn. <> (Z) nduen [du:n1] / ndwen [dɯ:n1]. Idem. Dwk ndwen coq bit ‘Đào giun cho vịt ăn’.
117. (V) giương [zɯɤŋ1]. Mở rộng, căng ra, nâng cao. Giương buồm ra khơi. Giương đôi mắt ếch. <> (Z) caengz [ɕaŋ2]. Idem. Caengz da dwk yawj ‘Giương mắt nhìn’.
118. (V) gõ [ɣɔ4]. Đập nhẹ vào vật cứng, nghe thành từng tiếng. Tụng kinh gõ mõ. Nghe lạch cạch có tiếng gõ cửa. <> (Z) roq [ɣo2]. Idem. roq dou ‘gõ cửa’. roq gyong ‘gõ trống’.
119. (V) gom [ɣɔm1]. Dồn lại, tích góp lại. Thu gom tiền để mua trâu. <> (Z) rom [ɣo:m1]. Rom cienz caep ranz moq ‘gom tiền làm nhà mới’.
120. (V) gốc [ɣokp7]. Phần dưới cùng của thân cây. Vốn có ban đầu. ThằngCuội ngồi gốc cây đa. Trả nợ cả gốc lẫn lãi.<> (Z) goek [kok7]. Idem. Goek raemx ‘nguồn nước’. Saw goek ‘chữ cổ’. Miz goek cij miz lei ‘có gốc mới có lãi’.
121. (V) gối [ɣoi5]. Trong đầu gối. Mặt trước nơi ống chân khớp với đùi. Đói đầu gối phải bò. <> (Z) gaeuh [kau6]. Trong Duzgaeuh ‘đầu gối’.
122. (V) há [ha5]. Mở to miệng. Há miệng mắc quai. Há miệng chờ sung <> (Z) aj [a3]. Idem. Aj bak dwk hunghung ‘miệng há cực to’.
123. (V) han [han1]. Hỏi, hỏi han. Trước xe đon đả han chào. <> (Z) han [ha:n1]. Trả lời . De cam bae cam dauq cungj mbouj han ‘hỏi tới hỏi lui mãi mà nó cũng không trả lời’.
124. (V) háng [haŋ5]. Phần cuối của thân người, giữa hai đùi. Đứng giạng háng. <> (Z) hangx [ha:ŋ4]. Idem.
125. (V) hao [hau1]. Hao hao: vẻ giống nahu. Chị em nó hao hao giống nhau. <> (Z) haeuj [hau3]. Idem. Naj de haeuj daxboh ‘nó hao hao giống bố’.
126. (V) hằm [hăm2]. Hằm hằm; vẻ mặt tức giận. <> (Z) haemz [ham2]. Idem. Ho haemz ‘căm tức’.
127. V) hằn [hăn2]. Nổi vết. Vết tấy. Trán hằn nhiều vết nhăn. <> (Z) haenz [han2]. Idem.
128. (V) hếu [heu5]. Màu trắng bệch. Cái gáy trắng hếu. Hàm răng trắng hếu <> (Z) hau [ha:u1]. Màu trắng.
129. (V) hoẵng [hwaŋ4]. Thú rừng, giống nai, lông vàng. gvangh [kwa:ŋ6]. Idem.
130. (V) hong [hɔŋm1]. Hơ đồ vật bên lửa cho khô. Hong quần áo bên bếp lửa.<> (Z) hangq [ha:ŋ5]. Idem. Bya cuengq gwnz feiz hangq ‘hong cá trên lửa’.
131. (V) hong [hɔŋm6]. Khoang trống trong cổ, nơi tiếp giáp với miệng và thực quản. Nói rát cả cổ họng. <> (Z) hongh [ho:ŋ6]. Idem.
132. (V) hôm [hom1]. Buổi tối. Ăm bữa hôm, lo bữa mai. <> (Z) haemh [ham6]. Idem. Haemh gonq ‘đêm hôm trước’.
133. (V) kẽ [kɛ4]. Chỗ hở hẹp. Nhìn qua kẽ hở. Kẽ răng. <> (Z) geh [ke6]. Idem. Geh dou ‘khe cửa’.
134. (V) kén [kɛn4]. Chọn lựa. Kén cá chọn canh. <> (Z) genj [ke:n3]. Idem. Genj haeux ceh ‘chọn giống lúa’.
135. (V) kéo [kɛu5]. Đồ dùng để cắt, gồm hai thanh ghép với một trục quay. Dùng kéo cắt vải. <> (Z) geuz [ke:u2]. Idem.
136. (V) kéo [kɛu5]. Lôi đi. Cùng nối nhau đi theo hàng dài. Trâu kéo cày. Đàn kiến kéo nhau đi. <> (Z) geuj [ke:u5]. Idem. Hoenz geuj hwnj mbwn ‘khói cuốn lên trời’.
137. (V) kẹp [kɛp6]. Cắp, ép chặt vật vào giữa. Càng cua kẹp tay. <> (Z) geb [ke:p8]. Idem.
138. (V) kham [xam1]. Kham khổ: khổ cực, nghèo nàn. Ăn uống kham khổ. Đời sống kham khổ. <> (Z) gaemz [kham2]. Đắng. Mbei doek cauq lawz cauq lawz gaemz ‘mật rơi vào nồi nào thì nồi ấy đắng’ / goem [khom2]. Idem. Lwg goem ‘mướp đắng’ / gum [khum1]. Idem. / haemz [ham2]. Đắng . Gian nan. ~ baenz mbei ‘đắng như mật’ Gwn ~ gwn hoj ‘ngậm đắng nuốt cay’.
139. (V) khẳng [xăŋ3]. Khẳng khiu: gầy khô. Chân tay khẳng khiu. Cành cây khẳng khiu. <> (Z) gaengz [kaŋ2]. Gầy yếu.
140. (V) kiệt [kiet8]. Keo kiệt: hà tiện, bủn xỉn. Lão già keo kiệt. <> (Z) ged [ke:t8]. Idem. Mwngz ndaej ged baenzlai? ‘keo kiệt đến thế sao?’.
141. (V) là [la2]. Tiếng chỉ báo đối tượng được giải thích. Em là con gái nhà quê. <> (Z) laz [la2]. Idem.
142. (V) lăm [lăm1]. Cà lăm: nói lắp. Nó mắc tật nói cà lăm. <> (Z) laemh [lam6]. Idem. Vunzlaux gangj haengj laemh ‘ông lão nói cứ hay lặp đi lặp lại’.
143. (V) lăn [lăn1]. Quay tròn chuyển đi trên một bề mặt. Cho gỗ lăn xuống chân đồi. <> (Z) laen [lan2]. Xe cuộn lại. Aeu biz ma laen cag ‘Lấy cỏ râu rồng xe dây thừng’.
144. (V) lấn [lɤ̆n5]. Chen đẩy, vượt sang. Quân giặc xâm lấn bờ cõi. <> (Z) laenz [lan2]. Idem. laenz gvaq maz ‘lấn sang’.
145. (V) lọc [lɔkp8]. Lừa lọc: lừa dối, lường gạt. <> (Z) luk [luk7] / lok [lo:k7]. Idem. Mwngz gaej luk gou ‘mày chớ có lừa tao’.
146. (V) lòi [lɔi2]. Lợn lòi: lợn rừng. <> (Z) laih [la:i6]. Idem.
147. (V) lột [lot8]. Bóc, tách, trút bỏ lớp ngoài. Rắn lột xác. <> (Z) lot [lo:t7]. Bong da, trầy da.
148. (V) lợm [lɤm6]. Cảm giác buồn nôn. Lợm giọng buồn nôn. <> (Z) laemz [lam2]. Idem. Muz laemz: ‘buồn nôn’.
149. (V) lu [lu1]. Chum to đựng nước. <> (Z) luh [lu6]. Idem.
150. (V) luồn [luon2]. Chui qua lỗ hổng. Xe chỉ luồn kim. <> (Z) luen [lu:n1]. Idem. Duz ma luen congh ciengz ‘chó chui qua lỗ chân tường’.
151. (V) lưa [lɯa1]. Thừa ra, sót lại. Kẻ mất người lưa. <> (Z) lw [lɯ1]. Idem. Noh lw dwk baenz raeuh ‘còn lại khá nhiều thịt’.
152. (V) lưỡi [lɯɤi4]. Bộ phận mềm trong miệng, dể nếm thức ăn. Uốn ba tấc lưỡi. <> (Z) linx [lin4]. Idem.
153. (V) má [ma5]. Chó má:loài chó. <> (Z) ma [ma1]. Chó. Duz ma luen congh ciengz ‘Chó chui qua lỗ chân tường’.
154. (V) má [ma5]. Lúa má: trỏ lúa đang trồng. Ngoài đồng lúa má tốt tươi. <> (Z) max [ma4]. Lúa nương.
155. (V) mái [mai5]. Trỏ giống cái loài chim. Gà mái ấp trứng. <> (Z) maih [ma:i6]. Trỏ bộ phận sinh dục giống cái.
156. (V) mảnh [mɛɲ3]. Mẩu vỡ từ vật cứng. Mảnh chĩnh vứt ngoài bụi tre. <> (Z) meng [me:ŋ1]. Idem.
156. (V) mào [mau2]. Chốc mào: loài chim có chùm lông dựng cao trên đầu. <> (Z) mauh [ma:u6]. Roegmauh: ‘chốc mào’.
157. (V) mày [măi2]. Nhân xưng ngôi 2 số ít. <> (Z) mawz [maɯ2]. Idem.
158. (V) mận [mɤ̆n6]. Loài cây họ đào, hoa trắng, quả chua. Bây giờ Mận mới hỏi Đào. <> (Z) maenj [man3]. Idem. Mak maenj mbouj cug gwn cix soemj ‘Quả mận chưa chín ăn sẽ chua’.
159. (V) mất [mɤ̆t5]. Không còn, hết, chết. Tiền mất tật mang. <> (Z) maet [mat7]. Idem.
160. (V) mẹ [mɛ6]. Người đàn bà sinh ra con. Một lòng thờ mẹ kính cha. <> (Z) meh [me6]. Idem. Lwg gaej lumz meh ciengx ‘Làm con chớ quên ơn mẹ sinh thành’.
161. (V) mệt [met8]. Nhọc, mỏi, kiệt sức. Làm lụng không biết mệt. <> (Z) mieg [mi:k8]. Idem. Gij rengz gou mieg liux ‘Tôi đã mệt mỏi lắm rồi’.
162. (V) mịn [min6]. Bột nhỏ hạt, sờ thấy mướt tay. Khoai mịn. Mịn màng. <> (Z) mienz [mi:n2]. Idem. Gij mba haeux neix mienz lai ‘Chỗ bột gạo ấy thật là mịn’.
163. (V) mịt [mit8]. Nom không rõ, lu mờ. Mờ mịt, mịt mùng. <> (Z) myad [mja:t8]. Idem. Haemh neix ndaundeiq müo myad myad ‘Đêm nay sao trời mờ mịt’.
164. (V) móc [mɔkp7]. Sương nặng hạt. Mưa móc tưới nhuần. <> (Z) mok [mo:k7]. Idem. Haet neix mbwn laep mok ‘Hôm nay sương mù dày đặc’.
165. (V) mọt [mɔt8]. Loài trùng nhỏ đục gỗ. Con mọt sách. <> (Z) mod [mo:t8]. Idem. Mod dwk sim faex ‘Mọt đục sâu vào thân cây’.
166. (V) mối [moi5] / mai [mai1]. Sợi chỉ, dây nối. Nhện chờ mối ai. Ông mai bà mối. <> (Z) mae [mai1]. Idem. mae goenq caiq swnj ‘Sợi đứt thì nối lại’.
167. (V) mới [mɤi5]. Trái với cũ. Dọn sang nhà mới. <> (Z) mawq [maɯ5] / moq [mo5]. Idem. Guh ranz moq ‘Dựng nhà mới’.
168. (V) mừng [mɯŋ2]. Vui sướng đón nhận điều tốt lành. Tay bắt mặt mừng. Mừng anh chị tốt đôi <> (Z) maengx [maŋ4]. Idem. Lwgngez daenj buh moq gig maengx ‘Thằng bé được mặc áo mới mừng lắm’.
169. (V) mương [mɯɤŋ1]. Ngòi dẫn nước vào ruộng. <> (Z) mieng [mi:ŋ1]. Idem. Hai mieng bae coh naz ‘Khơi mương dẫn nước vào ruộng’.
170. (V) nài [nai2]. Van xin, năn nỉ. Vật nài van xin. <> (Z) naih [na:i6]. Idem.
171. (V) nào [nau2]. Tiếng tỏ ý thúc giục. Nào ta đi thôi nào. <> (Z) nauh [na:u6]. Idem.
172. (V) này [năi2]. Đây. Này là em ruột, này là em dâu <> (Z) neix [nei4]. Idem. Gij mak neix ndei gwn ‘Những quả này ăn ngon’.
173. (V) nẫu [nɤ̆u4]. Chín nục, chín ngấu, ruỗng nát. Trái chín nấu. Buồn nẫu ruột. <> (Z) naeuh [nau6]. Ruỗng nát. Vaiz dai gok mbouj maeuh ‘Trâu chết, sừng không ruỗng nát’.
174. (V) nén [nɛn5]. Đè xuống, giằn xuống, ép chặt. Nắm cơm nén chặt. Nén lòng chờ đợi. <> (Z) naenx [nan4]. Idem. Naenx gyaq ‘ép giá’ . Maenx heiq ‘giằn lòng’.
175. (V) nga [ŋa1]. Tục tằn, ngây ngô, ngớ ngẩn. Phàm gian óc chớ nga chơi. <> (Z) ngah [ŋa6]. Đần độn. Gaenz ngah ‘người ngây’.
176. (V) ngái [ŋai5]. Xa ngái: xa xôi. <> (Z) gyae [kjai1]. Xa. Byaij roen gyae ‘đi đường xa’.
177. (V) ngại [ŋai6]. E dè, không hào hứng. Đường xa chớ ngại Ngô, Lào. <> (Z) aix [a:i4]. Idem.
178. (V) ngang [ŋaŋ1]. Lưng chừng ở giữa. Mây bay ngang đèo. Ngang lưng thì thắt bao vàng. <> (Z) gyang [kja:ŋ1]. Idem. Gyang dah ‘ngang sông’. Gyang mbaek haeux ‘lưng ống gạo’.
179. (V) ngáy [ŋăi5]. Tiếng phát ra từ miệng và mũi trong khi ngủ. Đêm nằm thì ngáy kho kho. <> (Z) gyaen [kjan1]. De ninz gyaen foxfox ‘Nó ngủ ngáy pho pho’.
180. (V) ngắc [ŋak7]. Ngúc ngắc: lắc qua lắc lại, ngúng ngẩy. <> (Z) ngak [ŋa:k7]. Ngucngak : ngúc ngắc. Ndaek neix caen ngukngak ‘Cô ta cứ ngúng nguẩy hoài’.
181. (V) ngăm [ŋam1]. Màu da hơi đen. Nước da bắt nắng ngăm ngăm đen. <> (Z) gyaemx [kjam4]. Idem. Ndaem gyaemx ‘đen thui’.
182. (V) ngắn [ŋan5]. Trường độ ít, trái với dài. Bóc ngắn cắn dài. <> (Z) gaenq [kan5]. Idem.
183. (V) ngắt [ŋat7]. Cảm giác lạnh lẽo, vắng vẻ. Lạnh ngắt. Vắng ngắt. Ngàn dâu xanh ngắt một màu. <> (Z) gyaet [kjat7] / gaet [kat7]. Buốt lạnh. Gij raemx neix gyaet lai ‘Nước chỗ này lạnh lắm’. Raemx gaet ‘Nước lạnh ngắt’.
184. (V) ngậm [ŋɤ̆m6]. Khép miệng. Giữ thức gì trong miệng và khép môi lại. Ngậm như miệng hến. Ngậm bồ hòn làm ngọt. <> (Z) iemj [i:m3] / iem [i:m1]. Idem. Iemj sae ‘hến ngậm miệng’. Bak iem raemx ‘Miệng ngậm nước’.
185. (V) nghĩ [ŋi4]. Suy xét. Tưởng nhớ đến. Nghĩ người ăn gió nằm sương xót thầm. <> (Z) ngeix [ŋei4]. Idem. Ngeix boh meh aencingz ‘Nhớ tới công ơn bố mẹ’.
186. (V) nghiêng [ŋieŋ1]. Theo chiều xiêu xiên, ngả sang một bên. Vành nón che nghiêng. <> (Z) ngeng [ŋe:ŋ1]. Idem. Ninz ngeng ‘nằm nghiêng’ . Hwnq saeu mboj ndaej ngeng ‘Dựng cột đừng để nghiêng’.
187. (V) ngòm [ŋɔm2]. Màu đen đục ngầu. Đen ngòm. <> (Z) hoemz [hom2].Đục ngầu. Raemx hoemz ndei lumh bya ‘Nước đục dễ mò cá’.
188. (V) ngon [ŋɔn1]. Hợp khẩu vị, khoái khẩu. Ăn ngon mặc đẹp. <> (Z) ngonz [ŋo:n2]. Idem. Gin ngonz lai ‘Ăn ngon quá’.
189. (V) ngốc [ŋokp7]. Ngu si, đần độn. Khôn độc, ngốc đàn. <> (Z) huk [huk7]. Idem. Boux huk ‘thằng ngốc’.
190. (V) ngốn [ŋon5]. Nuốt lấy từng miếng to. <> (Z) gyan [kja:n1]. Idem. Gyan gwn ‘Ngốn lấy ngốn để’.
191. (V) ngụm [ŋum6]. Chỗ nước được hớp uống một lần. Cho xin ngụm nước. <> (Z) gaemz [kam2]. Idem. Gwn song gaemz raemx ‘Uống vài ngụm nước’.
192. (V) nhai [ɲai1]. Dùng răng nghiền thức ăn trong miệng. Tay làm hàm nhai. <> (Z) nyaij [ɳa:i3]. Idem.
193. (V) nhánh [ɲɛɲ5] / nhành [ɲƐɲ2]. Cành cây nhỏ. <> (Z) ngingh [ŋiŋ6] / nyingh [ɳeiŋ6]. Idem. Yaeb nyingh faex guh fwnz ‘Nhặt những nhành cây làm củi đun’.
194. (V) nhắm [ɲăm5]. Nhai nếm thức ăn. Nhắm rượu. <> (Z) nyaemq [ɳam5]. Idem. Nyaemq laeuj ‘nhắm rượu’.
195. (V) nhặng [ɲaŋ1]. Ruồi xanh. <> (Z) nyaen [ɳan1]. Idem.
196. (V) nhắp [ɲap7]. Nhắm mắt, chợp mắt. <> (Z) laep [lap7]. Idem. Laep da cix raen lwnz ‘Vừa chợp mắt đã thấy bóng em’.
197. (V) nhặt [ɲăt8]. Chật, dồn, mau gấp. Bắt khoan bắt nhặt. <> (Z) nyaed [ɳat8]. Idem. Vunz nyaed lai ‘người chật rồi’. Nyaed fwnx haeuj cauq ‘Đun đầy củi vào lò’.
198. (V) nhấm [ɲɤ̆m5]. Gặm từng tí và nhai kỹ. Giám nhấm quần áo. <> (Z) nyaemj [ɳam3] / yaemj [jam3]. Idem.
199. (V) nhíp [ɲip7]. Khâu chắp lại. <> (Z) nyib [ɳip8]. Idem. Nyib buh moq ‘khâu áo mới’.
200. (V) nhỏ [ɲɔ3]. Bé, trái với “to”. <> (Z) nyoj [ɳo3]. Thu bé lại.
201. (V) nói [nɔi5]. Phát ngôn thành lời, trò chuyện. Miệng nói tay làm <> (Z) naeuz [nau2]. Idem. Dingq coenz vah mwngz naeux ‘Nghe lời mày nói’.
202. (V) óc [ɔkp7]. Bộ não. Nghĩ nát óc. <> (Z) uk [uk7]. Idem. Uk gyaeuj ‘đầu óc’.
203. (V) ôm [om1]. Quàng tay giữ chặt vào lòng. Ôm rơm nhặm bụng. <> (Z) umj [um3]. Idem. Umj lwg ‘Ôm em bé’.
204. (V) phô [fo1]. Bày ra, khoe ra. Có vàng, vàng chẳng hay phô. <> (Z) boq [po5]. Khoe khoang. Gangj boq ‘nói phét’.
205. (V) phồng [foŋm2]. Phình to lên. Phập phồng. <> (Z) bongz [po:ŋ2]. Idem. Dungx bongz ‘Bụng căng phồng lên’.
206. (V) phừng [fɯŋ2] / bừng [bɯŋ2]. Rực sáng lên. Lửa chợt bốc lên. Lửa cháy phừng phừng. Bừng sáng. <> (Z) foengx [foŋ4]. Idem. Cawj byaek aeu feiz foengx ‘Luộc rau lửa phải bốc mạnh’.
207. (V) quạ [kwa6]. Loài chim lông đen. Diều tha, quạ mổ. <>(Z) ga [ga1]. Lamjbwn roeg ga duzduz ndaem ‘Khắp nơi quạ đều đen như nhau’.
208. (V) quảy [kwai3]. Gánh một bên, bên còn lại tì tay cho cân bằng. Quảy thúng đi mua thóc. <> (Z) gvaij [kwa:i3]. Idem.
209. (V) quanh [kwɛɲ1]. Bốn bề. Vòng quanh. <> (Z) gvaengx [kwaŋ4]. Idem. Seiq gvaeng ‘chung quanh’.
210. (V) quăng [kwaŋ1]. Vứt đi. Vung ra xa. Bủa lưới quăng chài. <> (Z) gveng [kwe:ŋ1]. Idem. Gveng roengz daemz bae ‘Vứt xuống ao cho rồi’.
211. (V) què [kwɛ2]. Chân bị tật, khó đi. Gà què ăn quẩn cối xay. <> (Z) gvez [kwe2]. Idem. Ga gvez ‘chân què’.
212. (V) quét [kwɛt7]. Dùng chổi làm sạch rác. Con sãi ở chùa thì quét lá đa. <> (Z) gvet [kwe:t7]. Idem. Gvet nyapnyaj ok bae ‘Quét cho sạch rác đi’.
213. (V) rám [ʐam5]. Nắng hoặc lửa thiêu cho đỏ hoặc đen đi. / sạm [şam6]. Đen sẫm lại. Da rám nắng mà sạm đen. <> (Z) ramj [ɣa:m3]. Đốt cháy. Gaej gwn ngaiz haue ramj ‘Đừng ăn cơm đã cháy đen’.
214. (V) ràng [ʐaŋ2]. Dùng dây quấn buộc xung quanh. Ràng buộc lấy nhau. <> (Z) rangh [ɣa:ŋ6] / riengh [ɣi:ŋ4]. Nối với nhau. Rangh cieg ‘nối dây thừng’. Lumj maesei dox riengh ‘Dường như dây tơ chắp nối’.
215. (V) rêu [ʐeu1]. Loài tảo mọc nơi ẩm ướt (chân tường, vách đá). Hòn đá xanh rì lún phún rêu. <> (Z) reuz [ɣeu1]. Idem. Byaek reuz cauj noh ‘Quơ rêu nướng thịt’.
216. (V) riu [ʐiu1]. Đồ đan để xúc bắt tép. Đi riu tép. Tép riu. <> (Z) yiuz [ji:u2]. Loài tôm nhỏ, tép.
217. (V) rò [ʐɔ2]. Nước rỉ ra ngoài. Nước rò ra từ chân đê. <> (Z) roh [ɣo6]. Idem. Fwn doek ranz cix roh ‘Vừa mưa mái nhà đã dột’.
218. (V) rõ [ʐɔ4]. Hiểu ra, nhận thấy được. Hai năm rõ mười. <> (Z) rox [ɣo4]. Idem. Mwngz rox mbouj rox ‘Mày đã rõ hay chưa rõ’.
219. (V) rộc [ʐokp8]. Ruộng ở khe núi. <>(Z) lueg [lu:k8]. Idem.
220. (V) rống [ʐoŋm5]. Tiếng kêu của động vật to. Tiếng chó sủa, tiếng trâu rống. <> (Z) rongx [ɣo:ŋ4]. Idem. Vaiz rongz ‘trâu rống’. Guk rongz ‘hổ gầm’.
221. (V) rộng [ʐoŋm6]. Có kích cỡ lớn, sức chứa nhiều. Hai ống quần rộng thùng thình. <> (Z) loengz [loŋ2]. Idem. Geu buh neix loengz lai ‘Bộ áo quần này rộng quá’.
222. (V) rốt [ʐot7]. Cuối chót. Một trai con thứ rốt lòng. <> (Z) yot [jo:t7]. Idem. Boh meh gyaez lwg yot ‘Bố mẹ cưng chiều con út’.
223. (V) rưới [ʐɯɤi5]. Rách rưới: quần áo cũ nát, tơi tả. Rách rưới như gã ăn mày. <> (Z) lwiz [lɯ:i2]. Cũ nát. Vaj lwix ‘mảnh vải cũ’.
224. (V) sao [şa:u1]. Tinh tú trên trời. Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ. <> (Z) ndau [da:u1]. Idem. Ndau gwnz mbwn ‘sao trên trời’.
225. (V) sàng [şaŋ2]. Đồ đan bằng nan tre, có lỗ (thưa hơn dần) để làm sạch gạo sau khi xay thóc. Công em xay giã dần sàng. <> (Z) raeng [ɣaŋ1]. Idem. Ndaw ranz raeng mbouj lad ‘Trong nhà dần sàng đều chẳng có’.
226. (V) sai [şai1]. Nhiều, dày đặc (quả). Vườn cam sai quả. <> (Z) seiq [θe:i5]. Nhiều, đông đúc. Aen mbanj neix vunz seiq ‘dân cư bản này thật đông đúc’.
227. (V) sém [şɛm5]. Bị bắt lửa cháy ở rìa hoặc bề mặt. <> (Z) remj [ɣe:m3]. Quá lửa cháy khô. Cawj byaek remj loh ‘Rau nấu bị cháy sém rồi’.
228. (V) sét [şɛt7]. Hiện tượng phóng điện giữa mây và mặt đất, gây tiếng nổ to. Giữa đường mụ bị sét đánh chết <> (Z) deg [te:k8]. Idem.
229. (V) soi [şɔi1] / rọi [ʐɔi6]. Chiếu sáng. Ánh trăng soi sáng muôn nơi. Ngọn đuốc rọi thẳng vào hang. <> (Z) coij [ɕo:i3]. Idem. Ndit coij ‘Ánh nắng chiếu rọi’.
230. (V) suối [şuoi5]. Khe nước trong rừng. Dòng suối nhỏ chảy ra sông. <> (Z) guij [khu:i3]. Idem.
231. (V) sượng [şɯɤŋ6]. Củ luộc rồi mà chưa thật chín, hoặc không mềm. Sắn này không bở, sượng lắm. <> (Z) swnx [θɯn4]. Idem. Aen sawz neix lij swnx ‘Khoai này sượng lắm’.
232. (V) tày [tăi2]. Kiểu chào ngày xưa, hai bàn tay úp lên nhau, hơi nâng cao và đưa về phía trước. Ngươi Trung Ngộ rảo đến trước tày rằng. <> (Z) sax [θa4]. Idem.
233. (V) tăm [tăm1]. Bọt khí trong nước. Sông dài cá lội biệt tăm. <> (Z) cimq [ɕim5]. Idem.
234. (V) tí [ti5]. Một chút. Đợi một tí. <> (Z) deij [tei3]. Idem. Mwng byaij heih deij ‘Mày mau mau lên một chút’.
235. (V) thét [thɛt7]. Kêu to, quát to. Gào thét vang trời. <> (Z) sek [θe:k7]. Idem. sek vaiz ‘Thét mắng con trâu’.
236. (V) to [tɔ1]. Có kích cỡ lớn. Lớn mật to gan. Tai to mặt lớn. <> (Z) daeu [tɑu1]. Idem.
237. (V) tơi [tɤi1]. Áo chằm bằng lá, mặc che mưa. Mang tơi đội nón ra đồng. <> (Z) se [θe1]. Idem.
238. (V) trai [tʂai1]. Người thuộc giới nam. Một trai con thứ rốt lòng. <> (Z) sai [θa:i1]. Idem. Boux sai ‘đàn ông’.
239. (V) trái [tʂai5]. Bên tả, ngược với bên phải. Nó thuận tay trái. <> (Z) soix [θo:i4] / swix [θɯ:i4]. Idem. Mungz soix ‘tay trái’. Fwngz swix ‘tay trái’.
240. (V) tro [tʂɔ1] / gio [zɔ1]. Tàn than còn lại sau khi cháy. Bôi tro trát trấu vào mặt. <> (Z) gyoq [kjo6]. Idem. Gyoq feiz ‘tro tàn’.
241. (V) tròn [tşɔn2]. Hình phẳng hoặc hình khối khép vòng, không có cạnh. Yêu nhau trái ấu cũng tròn. Đêm rằm trăng tròn. <> (Z) luenz [lu:n2]. Idem. Luenz lujluj ‘tròn vành vạnh’.
242. (V) trống [tşoŋm5]. Nhạc cụ làm bằng gỗ (tang trống), hai đầu bịt da (mặt trống). Tùng tùng trống đánh ngũ liên. <> (Z) gyong [kjo:ŋ1]. Idem. Aen laz baengh aen gyong ‘Tiếng cồng phải hòa với tiếng trống’.
243. (V) trơn [tşɤn1]. Bề mặt có độ ma sát thấp, dễ trượt. Trời mưa đường đất trơn như mỡ. <> (Z) conj [ɕo:n3]. Trượt. Conj roengz ‘trượt xuống’ / lwenq [lɯ:n5]. Trơn bóng. Gwnz rin gig lwenq ‘Mặt đá thật trơn’.
244. (V) trùm [tşum2]. Bao phủ lên trên. Bóng cây trùm mái nhà. <> (Z) gyuem [kju:m1] / rumj [ɣum3]. Idem. Haemh ninz yaek gyuem denz ‘Đêm ngủ phải đắp chăn’.
245. (V) ức [ɯk7]. Phần ngực của loài chim, thú. Con gà chân cao, ức nở. <> (Z) aek [ak7]. Ngực. De enj aek dwk byaij ‘Nó ưỡn ngực mà đi’.
246. (V) ưỡn [ɯɤn4]. Vươn ngực lên phía trước. <> (Z) enj [e:n3]. Idem. De enj aek dwk byaij ‘Nó ưỡn ngực mà đi’.
247. (V) ửng [ɯŋ3]. Hơi đỏ lên. Đôi má ửng hồng / hửng [hɯŋ3]. Hơi sáng lên. Trời hửng nắng <> (Z) wenj [ɯ:n3]. Trời quang tạnh. Trời rực sáng. Mbwn wemj ‘trời tạnh’. Daeng ngoenz wenj vangjvangj ‘Trời nắng rực rỡ’.
248. (V) vác [vak7]. Đặt đồ lên vai mang đi. Nhà nông vác cuốc ra đồng. <> (Z) mbeg [be:k8]. Idem.
249. (V) vai [vai1]. Phần cơ thể giữa cổ và cánh tay. Lưng dài vai rộng. Áo vắt vai, quần hai ống ướt. <> (Z) mbaq [ba5]. Idem. Rap dwk mbaq hwnj daw ‘Gánh nhiều vai chai cả đi’.
250. (V) vải [vai3]. Vật liệu để may áo quần, dệt từ sợi bông. Mà nay áo vải cờ đào <> (Z) baix [pha:i4]. Idem.
251. (V) vẩy [vɤ̆i3]. Vung vẩy: bàn tay cử độmg liên tục . Chó vẩy đuôi mừng. <> (Z) vae [wai1]. Idem.
252. (V) vẹo [vɛu6]. Nghiêng lệch sang một bên. Dáng đi xiêu vẹo. <> (Z) mbeuj [be:u3]. Lệch, không ngay ngắn. Naengh mbeuj loh ‘Ngồi lệch rồi’. Faex mbeuj gawq mbouj baen benj ‘Gỗ cong vẹo không xẻ thành ván được’.
253. (V) vịt [vit8]. Loài gia cầm bơi trên nước. Khách đến nhà, không gà thì vịt. <> (Z) bit [pit7] / baet [pat7]. Idem.
254. (V) vứt [vɯt7]. Ném đi, quăng đi. Vứt tiền qua cửa sổ. <> (Z) vut [wut7]. Idem.
255. (V) xiên [sien1]. Nghiêng chéo một bên. Ánh nắng chiếu xiên xuống sân. <> (Z) cienx [ɕi:n4]. Idem. De byaij ngauz cienx cienx ‘Nó đi dáng xiêu vẹo’.
256. (V) xổ [so3] / sổ [ʂo3]. Thoát ra, buông ra, tháo ra. Con sáo sổ lồng. <> (Z) coq [ɕo5]. Buông, thả, tháo. Coq haeux roengz rek ‘Bỏ gạo vào nồi’. Haemh neix gou bae coq raemx ‘Tối nay tôi đi tháo nước vào ruộng’.
257. (V) xống [soŋm5]. Quần, váy. Áo xống. <> (Z) congz [ɕo:ŋ2]. Bộ (áo quần). Daenj congz buh ndeu ‘Mặc bộ quần áo’.
3. Nhận xét chung
(1) Phần lớn các ngữ tố Việt và Choang kê ra trên đây có sự tương ứng một đối một, nhưng cũng có một số trường hợp, với một hình thức bên ngôn ngữ này có thể tìm thấy vài ba hình thức tương ứng bên ngôn ngữ kia. Những hình thức song tồn này có thể là những ngữ tố cùng gốc với ít nhiều biến đổi về mặt ngữ nghĩa, song cũng có thể chỉ đơn giản là các biến thể phát âm mà thôi.
(2) Hầu hết các ngữ tố Việt và Choang được xem xét ở đây đều là đơn tiết, có thể sử dụng độc lập trong câu. Tuy nhiên cũng có những trường hợp trong khi ở ngôn ngữ này ngữ tố đang xét là từ đơn tiết, thì trong ngôn ngữ kia tương ứng với nó là một ngữ tố không độc lập (thường là trong từ láy âm).
(3) Tình hình đối ứng ngữ âm giữa các ngữ tố chung Việt và Choang là rất đa dạng và phức tạp, có thể phản ảnh những tình trạng lịch sử khác nhau của các hiện tượng. Tạm thời không xét đến sự đối ứng về thanh điệu và vần, ở đây chỉ xin so sánh sơ qua về quan hệ giữa các âm đầu ở hai ngôn ngữ. Qua các dẫn liệu kể trên ta có thể nêu ra một vài nhận xét như sau:
a. Gần như có sự tương ứng “một đối một” từ các âm đầu l [l-], m [m-] và n [n-] của tiếng Việt so với tiếng Choang. Nhưng đối chiếu từ phía tiếng Choang sang tiếng Việt, thì có chút ít xê xích: Có 3 ngữ tố Choang mang âm đầu l [l-] lần lượt tương ứng với nh [ɲ-], r [ʐ-], tr [tʂ-] trong tiếng Việt.
b. Một số âm đầu của tiếng Việt tìm thấy sự tương ứng chủ yếu với một vài âm đầu trong tiếng Choang. Chẳng hạn như sau:
(V) b [b-] <> (Z) chủ yếu với b [p-], mb [b-], cá biệt với f [f-].
(V) c/k/q [k-] <> (Z) chủ yếu với g [k-], cá biệt với c [ɕ-], r [ɣ-].
(V) ch [c-] <> (Z) chủ yếu với c [ɕ-], cá biệt với y [j-], r [ɣ-], gy [kj-].
(V) đ [d-] <> (Z) chủ yếu với d [t-], cá biệt với nd [d-].
(V) g [ɣ-] <> (Z) chủ yếu với g [k-], r [ɣ-], cá biệt với g- [kh-] ng [ŋ-].
(V) h [h-] <> (Z) chủ yếu với h [h-], cá biệt với g [k-], zero [∅-].
(V) zero [∅-] <> (Z) chủ yếu với zero [∅-], cá biệt với h [h-].
(Trong phần dẫn liệu kê ra ở trên, các âm đầu zero [∅-] đều bị lược bỏ cho giản tiện).
Các âm đầu khác của tiếng Việt có quan hệ đối ứng khá phân tán với các âm đầu tiếng Choang, xin tạm không kể ra ở đây.
Những gì trình bày trên đây, từ dẫn liệu đến nhận xét chung, hẳn là chưa thật sự đầy đủ. Có thể vẫn cần được bổ chính trên nhiều tư liệu mới nữa.
Tài liệu tham khảo
1. de Rhodes, Alexandre. Từ điển Annam-Lusitan-Latin. Roma, 1651. Bản dịch tiếng Việt của Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, và Đỗ Quang Chính. Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Khoa học Xã hội, 1991.
2. 古壯字字典 (Sawndip Sawdenj), sơ cảo. Quảng Tây: Quảng Tây Dân tộc Xuất bản Xã, 1989.
3. Hoàng Phê, chủ biên. Tự điển tiếng Việt. 7th ed. Hà Nội – Đà Nẵng: Nxb Đà Nẵng – Trung tâm Từ điển học, 2000.
4. Huình Tịnh Của. Đại Nam quấc âm tự vị (Dictionarie Annamite). Saigon, 1895 (tập I); 1896 (tập II).
5. Nguyễn Quang Hồng, chủ biên. Tự điển chữ Nôm (Sơ thảo). Hà Nội: Nghiên cứu Hán Nôm, 1995.
6. Nguyễn Quang Hồng. “Hiện tượng đồng hình giữa chữ Nôm Việt và chữ vuông Choang.” Tạp chí Hán Nôm, no. 2 (1997).
7. Nguyễn Tài Cẩn. Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt (Sơ thảo). Hà Nội: Nxb Giáo dục, 1995.
8. 张公谨 等著. 民族古文献概览. 北京: 民族出版社, 1997.
9. 张元生 等编. 古壯字文献迭註. 天津: 天津古籍出版社, 1992.
10. 徐松石. 傣族 撞族 越族 考. In 民族学研究著作五种 (上). 广东: 广东人民出版社, 1993.
11. 王力. 同源字典. 北京: 商務印書舘, 1982.
Chú thích: Bài viết này của GS. TSKH. Nguyễn Quang Hồng là Báo cáo trình bày tại Hội thảo Ngôn ngữ học Đông Nam Á lần thứ 5, Tp Hồ Chí Minh, 2000. Đăng tạp chí Ngôn ngữ, 2001, N.13.Chúng tôi đã được sự đồng ý của tác giản để đăng lại bài viết này trên webiste của Digitizing Việt Nam
Chữ Nôm là một hiện tượng nổi bật trong lịch sử phát triển của nền văn hoá dân tộc Việt Nam. Nói một cách giản dị, đó là một thứ văn tự mượn hình hài và quy tắc tạo chữ của hệ thống chữ Hán để tạo chữ, ghi âm tiếng Việt, tất nhiên là với cả một sự sáng tạo tuyệt vời của ông cha ta.
Vậy, Chữ Nôm hình thành từ khi nào? Đây là câu hỏi mà rất nhiều học giả đã bỏ bao công sức nghiên cứu để xác định. Có thể sớm nhất là ngay từ đầu Công Nguyên, khi chữ Hán được truyền bá vào Việt Nam, thì những chữ “Nôm” lẻ tẻ dùng để ghi tạm những tên đất, tên người, tên sản vật bản địa đã được tạo ra và ghi xen lẫn vào các văn bản chữ Hán. Nhưng điều này không có nghĩa là chữ Nôm, như một hệ thống văn tự biểu âm biểu ý cho tiếng Việt, đã được hình thành từ sớm như vậy. Từ chỗ những chữ Nôm lẻ tẻ được tạo ra một cách lâm thời, đến chỗ chế tác và định hình chữ Nôm thành một hệ thống văn tự, là một quá trình khá dài. Cho đến nay, qua nghiên cứu của các học giả, ta có thể khẳng định được là từ thời nhà Trần (thế kỷ XIII), chữ Nôm đã thực sự trở thành một thứ văn tự hẳn hoi với một khả năng hành chức độc lập.
Nhìn quen mà lạ
Nhiều người chỉ đọc thông thạo chữ Hán, khi thoáng nhìn văn bản Nôm, cứ ngỡ có thể dễ dàng đọc hiểu. Nhưng càng đọc kỹ, họ càng ngạc nhiên: hóa ra mình chẳng hiểu gì cả! Điều này thực ra cũng dễ hiểu thôi. Bởi chữ Nôm, tuy mang dáng dấp chữ Hán, lại có cách tạo chữ vô cùng độc đáo. Ngoài các phương thức hội âm, hội ý, hình thanh quen thuộc, chữ Nôm còn được hình thành nhờ những liên tưởng, kết nối ngữ nghĩa, thậm chí nhờ cả cấu trúc “chìm – nổi” mà ít ai ngờ tới.
Cấu trúc chữ Nôm – vài “chìa khóa” giải mã
Về cấu trúc chữ Nôm, đã có nhiều học giả dày công nghiên cứu và đưa ra những sơ đồ về các loại cấu trúc. Ở đây, thay vì đi sâu vào sơ đồ, ta hãy cùng nhấn mạnh những điểm then chốt trong cách tiếp cận và phân tích chữ Nôm:
Theo GS. Nguyễn Quang Hồng, với những chữ Hán được mượn nguyên vẹn vào văn bản chữ Nôm, đôi khi đọc nguyên âm Hán Việt cũng có khi đọc “chệch” một chút, thì ta sẽ không bàn tới cấu trúc của những chữ “Nôm giả tá” như vậy nữa. Tuy nhiên, nếu một chữ Hán được mượn làm chữ Nôm với một phép “gia giảm” nào đó thì chữ đó chính là đối tượng quan trọng của việc phân tích cấu trúc chữ Nôm. Ví dụ của trường hợp “giảm” có thể nhắc tới là chữ Một 殳, có thể được truy nguyên từ chữ “một” 没 nhưng bị giản lược đi một thành phần; trong khi đó, trường hợp “gia” thì có chữ Đĩ 𡚦, là do chữ “nữ” 女 thêm một cái “chấm” mà thành.
Bên cạnh đó, việc phân tích cấu trúc chữ Nôm tự tạo theo cơ chế phiên ghép chứ không phải gia giảm như trên thì phức tạp hơn. Khi tiếp xúc với văn bản Nôm, chúng ta sẽ bắt gặp những chữ Nôm không hề có mặt trong hệ thống chữ Hán, và đây chính là những đặc điểm giúp chữ Nôm khu biệt với chữ Hán. Ở đây, theo GS. Nguyễn Quang Hồng, ta cần lưu ý những hiện tượng như sau:
1. Những chữ Nôm gồm hai thành tố đều là biểu âm, có thể gọi là chữ Nôm hội âm. Ví dụ như: Trăng/Giăng < blăng 𢁋 (巴 ba+ 陵lăng), Trước 𨎟< klươc (略 lược + 車 cư), khi người Việt dùng chữ Hán để ghi tiếng Việt thế kỷ XVII về trước, lúc đó, tiếng Việt còn nhiều tổ hợp phụ âm kép như bl, ml, tl…
2. Những chữ Nôm với bộ thủ không thể nào giải thích được sáng rõ nếu không tìm cách vượt ra khỏi bản thân chữ vuông chính thống, mà phải liên hệ nó theo quan hệ liên kết ngang trong văn bản hoặc quan hệ liên tưởng dọc trong hệ thống văn tự. Chẳng hạn như ta bắt gặp bộ “túc”𧾷 trong chữ Lỡ (𧾷+ 呂) ở câu “Tối tăm lỡ bước đến đây” (Lục Vân Tiên). Tại sao chữ Lỡ lại có bộ thủ là bộ “túc” 𧾷 bên cạnh chữ Lữ 呂 biểu âm mà không phải là một bộ thủ khác "hợp lí" hơn? Thật khó giải thích được nếu như ta không đặt nó vào mối liên kết ngang với chữ Bước 𨀈 (𧾷+北) ngay sau đó. Sự liên kết bộ thủ như thế là có tính lâm thời, vào những văn cảnh khác, chữ Lỡ hoàn toàn có thể mang những bộ thủ khác thích hợp hơn. Lại có trường hợp như chữ Gần𧵆, thường được viết với bộ “bối” 貝, ý niệm về “gần” lại dùng bộ “bối” để ghi, thật khó lòng hình dung nổi. Nhưng khi ta liên hệ Gần với Xa (hai tiếng trái nghĩa trong cùng một trường nghĩa) thì mọi thứ lại trở nên sáng tỏ, chữ Xa 賒 trong văn bản Nôm là mượn chữ Hán Xa 賒 (có nghĩa là mua chịu, trả sau). Vì chữ Xa có bộ “bối” 貝 nên chữ Gần dĩ nhiên cũng có thể mang bộ “bối”貝 trong quan hệ liên tưởng với Xa.
3. Một cấu trúc nữa của chữ Nôm, rất lấy làm “bí hiểm” (theo cách nói của GS. Nguyễn Quang Hồng), đó là cấu trúc chìm - nổi trong chữ Nôm tự tạo. Ví dụ như chữ Mười/Mươi: ngoài những chữ như 𨒒 ta còn bắt gặp những chữ khác như 辻 hay 𨑮. Thật khó giải thích được tại sao bộ “xước” ⻍ lại có mặt ở đây trong các chữ viết tắt nếu không liên hệ nó với bộ “xước” trong chữ “mại” 迈 biểu âm ở dạng chữ đầy đủ hơn. Ở đây, bộ phận bị lược đi là bộ phận biểu âm, nhưng để lại bộ thủ. Chính hiện tượng này trong cấu trúc chữ Nôm tự tạo đã khiến học giả Nguyễn Quang Hồng nghĩ đến sự phân định cấu trúc nổi và cấu trúc chìm của chữ Nôm. Cấu trúc nổi là cấu trúc hình thức, theo cách này, trong chữ Mười/Mươi 辻 hay 𨑮, cấu trúc nổi chính là bộ “xước” ⻍+ “thập” 十 hay 什 còn cấu trúc chìm chính là một nửa của chữ mại 迈 với vai trò là bộ phận biểu âm.
Còn có khá nhiều những khía cạnh và hiện tượng khác liên quan đến vấn đề cấu trúc chữ Nôm. Trên đây chỉ là nhấn mạnh vào những gì làm nên đặc thù của chữ Nôm, và những điều này sẽ giúp người tiếp xúc với văn bản Nôm có thêm những chiếc chìa khoá để “giải mã” những chữ Nôm có cấu trúc lạ.
Từ những phân tích trên, ta cũng có thể thấy được tính “bất ổn định” của chữ Nôm song cũng thấy được sự sáng tạo, cơ động và linh hoạt của tiền nhân khi kiến tạo và sử dụng hệ thống văn tự độc đáo này.
(Theo Một số vấn đề và khía cạnh nghiên cứu chữ Nôm trong tuyển tập Ngôn ngữ. Văn Tự. Ngữ văn của GS. Nguyễn Quang Hồng)
Chiều ngày 7.10.2025, GS.TSKH. Nguyễn Quang Hồng—người đã dành trọn đời nghiên cứu tiếng Việt và di sản Hán Nôm—đã về với cõi im lặng vô biên, nơi tận cùng huyền bí của mọi ngôn ngữ.
Với Giáo sư, thời gian sống là điều kiện quý báu để suy tư về một sáng tạo kỳ lạ mang tính bước ngoặt của con người: ngôn ngữ. “Tác giả đã ngồi bàn máy tính để soạn thảo chuyên luận này trong thời gian hơn một năm. Song thời gian mà tác giả theo đuổi những vấn đề đặt ra trong công trình tính ra đã hơn 20 năm,” GS.TSKH. Nguyễn Quang Hồng tâm sự về quá trình miệt mài đeo đuổi những câu hỏi lớn về tiếng Việt và chữ viết trong lời mở đầu của Khái luận văn tự học chữ Nôm. Hành trình nghiên cứu không ngơi nghỉ ấy đã kết tinh thành những công trình đồ sộ trong bộ sưu tập Ngôn ngữ. Văn tự. Ngữ văn của tác giả trên Digitizing Việt Nam, vốn chỉ là “phần nổi của tảng băng” tích tụ tầng tầng lớp lớp những suy ngẫm, khảo cứu và lao động khoa học cần mẫn qua nhiều thập kỷ: những trăn trở từ hệ thống đến chi tiết, từ ngữ âm đến văn chương, từ cổ chí kim - nhằm đi đến tận cùng câu chuyện tiếng Việt.
Trong sự nghiêm cẩn tuyệt đối với khoa học, tác giả rất hiếm khi nói về mình. Chặng đường rong ruổi hẳn có nhiều đoạn khúc khuỷu khi đi vào những nơi "thâm sơn cùng cốc" của tiếng Việt, được Giáo sư tóm tắt vỏn vẹn trong hai câu: “Tác giả là người làm ngôn ngữ học, rồi cùng với ngôn ngữ học đi vào nghiên cứu chữ Nôm và các văn bản tác phẩm Hán Nôm. Vậy nên nhìn một cách tổng quan, tác giả là người nhiệt thành theo đuổi công việc của ngữ văn học nước nhà.”
GS.TSKH. Nguyễn Quang Hồng sinh năm 1940 tại làng Trà Kiệu, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Giai đoạn 1960–1965 ông du học tại Bắc Kinh, tốt nghiệp Cử nhân Ngữ văn (Đại học Bắc Kinh, 1965). 1970–1974: học nghiên cứu sinh tại Moskva, bảo vệ Phó Tiến sĩ Ngữ văn (Đại học Quốc gia Moskva và Viện Đông phương học Liên Xô, 1974). 1982–1985: thực tập sinh khoa học và bảo vệ Tiến sĩ Khoa học Ngữ văn. Ông được Nhà nước phong Phó Giáo sư năm 1984 và Giáo sư năm 1991.
Bộ sưu tập Ngôn ngữ. Văn tự. Ngữ văn tập hợp các chuyên luận nghiên cứu trong lĩnh vực ngôn ngữ học, văn tự học và ngữ văn học của GS.TSKH. Nguyễn Quang Hồng. Trong đó, Âm tiết tiếng Việt và ngôn từ thi ca là chuyên luận do GS. Nguyễn Quang Hồng viết cùng TS. Phan Diễm Phương. Nội dung các chuyên luận đa dạng, chạm tới nhiều hiện tượng và vấn đề khác nhau, có thể quy về hai nhóm chính: (1) Ngôn ngữ học và nghiên cứu Việt ngữ; (2) Ngữ văn học và nghiên cứu Hán Nôm. Các tài liệu đã được số hoá trong kho của dự án Digitizing Vietnam bao gồm:
❃ Âm tiết và loại hình ngôn ngữ
❃ Ngôn ngữ. Văn tự. Ngữ văn
❃ Khái luận văn tự học chữ Nôm
❃ Truyền kỳ mạn lục giải âm
❃ Âm tiết tiếng Việt và ngôn từ thi ca
❃ Di văn Chùa Dâu: Cổ Châu lục - Cổ Châu hạnh - Cổ châu nghi
KHẮC HỌA CHÂN DUNG TIẾNG VIỆT TRONG NGÔN NGỮ HỌC: KHI CẢM THỨC NGÔN NGỮ DẪN ĐƯỜNG TƯ DUY KHOA HỌC
Nhìn vào công trình ngôn ngữ học tiếng Việt của GS.TSKH. Nguyễn Quang Hồng, ta không chỉ thấy những kết quả nghiên cứu đầy sức nặng có ảnh hưởng sâu rộng liên ngành, mà còn thấy cả một quá trình so sánh – đối chiếu công phu các vận động bên trong ngôn ngữ cũng như giữa các ngôn ngữ, để tìm đúng “khung” phân tích tiếng Việt. Ở đó không chỉ có sự tham khảo rộng rãi những mô hình ngôn ngữ đã có, mà còn có sự dẫn dắt của một “cảm thức ngôn ngữ” nhạy bén, truy tìm cách thức tái hiện khoa học một hiện thực tâm lý ngôn ngữ từ bên trong, thay vì máy móc áp đặt một mô hình ngôn ngữ phổ biến.
GS.TSKH. Nguyễn Quang Hồng đã xác lập âm tiết mang thanh điệu (syllabeme) mới là đơn vị tối thiểu có khả năng biểu hiện nghĩa của tiếng Việt hiện đại; cấu trúc âm tiết được nhìn theo lưỡng phân âm đầu – vần cái (vần = hạt nhân + âm cuối), còn thanh điệu và âm đệm là thuộc tính toàn âm tiết. Từ khung này, ông đặt tiếng Việt vào bối cảnh so sánh–loại hình với các ngôn ngữ Đông–Đông Nam Á có thanh điệu (Việt–Mường, Tày–Thái, Hán, Tạng…), xem âm tiết là trung tâm và phân tích tỉ mỉ ba thành phần âm đầu – vần – thanh; đồng thời kết nối ngữ âm học với thi pháp học khi dùng dữ liệu thơ (đặc biệt Truyện Kiều) để kiểm chứng quy luật hiệp vần, phân biệt vần chính/vần thông và mỹ cảm “hòa âm”.
So sánh với tiếng Hán, ông chỉ ra khả năng phân lập nội bộ của âm tiết ở tiếng Việt hiện đại (và Hán trung đại) rõ hơn Hán Bắc Kinh hiện đại. Ở Việt ngữ, các thao tác lặp láy (nhí nhảnh, bồi hồi…) và nói lái/hoán vị rất phát triển; trong Hán trung đại có hiện tượng tương ứng là “phản thiết ngữ”, nhưng Bắc Kinh hiện đại thiên về lặp toàn bộ âm tiết (manmanr, lanlande…), làm giảm các biến đổi cục bộ bên trong âm tiết. Khi đọc các ví dụ so sánh tỉ mẩn của Giáo sư, độc giả dường như bước vào một phòng thí nghiệm ngôn ngữ, nơi các âm tiết đa dạng bóc tách và vận động liên hồi dưới sự quan sát say mê của một nhà khoa học.
KHẢO CỨU CHỮ NÔM: KẾT NỐI VỚI TRÍ TUỆ VÀ TẤM LÒNG CỦA BAO THẾ HỆ
Không thể nhắc đến GS. Nguyễn Quang Hồng mà không nhắc đến những công trình nghiên cứu chữ Nôm nay đã thành kinh điển, như Khái luận Văn tự học Chữ Nôm hay Từ điển Chữ Nôm Dẫn Giải.
Khái luận văn tự học chữ Nôm là công trình nền tảng của GS.TSKH. Nguyễn Quang Hồng về văn tự học chữ Nôm theo hướng ngôn ngữ học lịch sử – văn tự học so sánh – văn bản học. Sách xác lập hệ khái niệm xuất phát (ngôn ngữ/văn tự; “tục tự”, “thổ tự”, “phương tự”, “chữ Hán phi thường quy”; “chữ Nôm” là gì), đặt chữ Nôm trong bức tranh các hệ chữ cổ truyền ở Việt Nam (Chăm, Thái; Nôm Dao, Nôm Ngạn, Nôm Tày…), và truy nguyên nguồn gốc – điều kiện hình thành của Nôm qua tiếp xúc Việt–Hán, âm Hán–Việt, dấu tích văn khắc thời Lý, cùng các giả thuyết về thời điểm xuất hiện. Trên nền ấy, tác giả trình bày mẫu hình chữ Hán (cấu trúc, phép tạo chữ, ngữ tố), đối chiếu đặc trưng loại hình của chữ Nôm với các văn tự theo hình mẫu chữ Hán, đồng thời phân biệt chữ Hán mượn dùng và chữ Nôm tự tạo, đề xuất bảng phân loại tổng quát cho chữ Nôm Việt. Còn Tự điển chữ Nôm dẫn giải là một bước tiến lớn trong nghiên cứu và giảng giải chữ Nôm, làm sáng rõ sức sáng tạo và tinh thần tự chủ của người Việt trong ngôn ngữ. Dựa trên 124 tác phẩm/văn bản cổ, mỗi mục từ đều có xuất xứ rõ ràng, kèm ví dụ ngữ cảnh minh hoạ.
“Tiếp xúc với di sản Hán Nôm, chúng ta đồng thời cũng tiếp xúc với trí tuệ và tấm lòng của bao thế hệ cha ông trên khắp mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nước ta trước đây.” Giáo sư nhấn mạnh, “ngôn ngữ và cùng với nó là văn tự, không đơn thuần là phương tiện truyền tin, mà còn là phương tiện chuyển tải văn hóa, đặc biệt là chuyển tải văn hóa từ thế hệ này sang thế hệ khác của dân tộc.” Việc nghiên cứu chữ Nôm, đối với ông, không chỉ là một say mê khoa học, mà còn là một sứ mệnh kết nối, để các thế hệ người Việt có thể thấu cảm trí tuệ cũng như sự sáng tạo độc đáo của tổ tiên vượt ngoài biên giới thời gian.
GIẢI ĐỐ ĐỜI THƯỜNG VỚI TRÍ TUỆ HÀN LÂM: CHUYỆN I NGẮN Y DÀI
Bên cạnh những công trình nghiên cứu hàn lâm, GS.TSKH Nguyễn Quang Hồng là một cây bút hóm hỉnh, duyên dáng chuyên giải đáp những khúc mắc ngôn ngữ đời thường. Một trong những tiểu luận được nhiều người yêu thích là câu chuyện I ngắn Y dài. Chuyện bắt nguồn từ lá thư của một kỹ thuật viên chuyên đánh máy vi tính thể hiện chữ cho đài truyền hình Bình Thuận. Anh băn khoăn không biết liệu nên viết là Công ti hay Công ty, vì đạo diễn bảo một đằng, trưởng phòng lệnh một nẻo, và liệu có quy luật nào không.
Chuyện tưởng nhỏ mà không nhỏ, vì GS. Nguyễn Quang Hồng trả lời tường tận đến hơn bốn trang giấy, cẩn mẩn đi từ quy định của Bộ giáo dục (âm tiết có nguyên âm i cuối âm tiết thì viết bằng i, trừ uy, như duy, tuy, quy) đến những tập quán đã hình thành trước đó hàng thế kỷ (y dài trong từ Hán Việt, i ngắn dùng cho từ thuần Việt). Đối với câu hỏi của anh kỹ thuật viên, Giáo sư không áp đặt lên anh một gọng kìm đúng/sai mà thể hiện tầm nhìn bình thản của một nhà nghiên cứu đã đi đủ sâu vào ngàn năm biến thiên của tiếng Việt để hiểu và tin vào sự linh hoạt bền bỉ của nó:
“Tôi nghĩ là trong thực tiễn viết lách, ta không nên quá cứng nhắc, đòi hỏi phải áp dụng ngay tấp lự những gì đã phổ biến trong nhà trường. Vả lại, những gì ta đã học trong nhà trường hiện nay, cũng cần trải qua thử thách trong thực tiễn xã hội, rồi từ đó mới có thể tìm đến những chuẩn mực thích hợp hơn và hy vọng sẽ được mọi người chấp nhận. Nếu cần tôi cũng sẵn sàng viết ... “công ty”, phù hợp với “gu” của thủ trưởng cơ quan bạn, mà có thể cũng là ý muốn của công ty đang là đối tác của cơ quan bạn đấy thôi!”
Tuy nhiên, Giáo sư cũng nhắc khẽ anh khi thấy anh viết "qui định" thay vì “quy định”: “Riêng trường hợp chữ Quy, không rõ tại sao bạn lại bắt chước một số người khác viết là Qui. Đành rằng viết quy hay qui thì vẫn đọc là "q+uy", nhưng viết với -ui là đi chệch ra ngoài dãy những tiếng đều có vần -uy: duy, huy, luy, tuy, suy, nguy, v.v.” Sự nghiêm cẩn của một nhà ngôn ngữ học khiến Giáo sư ngay lập tức bắt lấy một “lỗi sai” không phải so với các quy ước ngoại tại, mà lệch khỏi những vận động nội tại của ngôn ngữ. “Với trường hợp này thì cho dù sếp của tôi có dọa trừ lương hay đuổi việc thì tôi vẫn cứ viết là Quy chứ nhất quyết không chịu “ngắn hoá” thành Qui đâu nghe,” Giáo sư hóm hỉnh nhắc anh kỹ thuật viên về việc gìn giữ tiếng Việt, không quên thêm hai chữ “đâu nghe” để kết thư như vừa mới nhắc nhở tâm tình với một người bạn. Trong một công trình mực thước, hàn lâm như Ngôn ngữ. Văn tự. Ngữ văn, lá thư và hai chữ “đâu nghe” dường như hé lộ một gương mặt khác của tác giả - gần gũi, thân tình, giản dị của một người Việt yêu tiếng Việt.
Những “lời quê chắp nhặt dông dài” trên đây cũng khó lòng khắc họa trọn vẹn một hành trình dấn thân rong ruổi của GS. TSKH. Nguyễn Quang Hồng, người đã đi về chốn tận cùng của ngôn ngữ, chạm đến ranh giới hữu hạn của một kiếp người. Nhớ đến từ "trăm năm" trong câu Kiều “Trăm năm trong cõi người ta”, ý chỉ nôm na một đời người ở trần thế, ta thấy chữ “trăm” được viết bằng bộ bách 百 đặt cạnh bộ lâm 林, tức hữu hạn đặt cạnh vô hạn. Digitizing Việt Nam rất mong được cùng quý độc giả kết nối với bộ sưu tập hữu hạn này và trao cho công trình một “trăm năm” sức sống mới, để cùng đưa cái hữu hạn vể phía vô hạn.
👉Đọc Bộ sưu tập Ngôn ngữ. Văn tự. Ngữ văn:
https://www.digitizingvietnam.com/.../ngon-ngu-van-tu-ngu...
👉Đọc Tự điển chữ Nôm dẫn giải:
https://www.digitizingvietnam.com/.../tu-dien-chu-nom-dan...
❀ Digitizing Việt Nam xin được gửi lời tri ân sâu sắc tưởng niệm đến GS.TSKH. Nguyễn Quang Hồng (1940–2025) vì đã để lại cho hậu thế một di sản lớn.