"Số hóa Việt Nam" (Digitizing Việt Nam) đánh dấu một bước tiến số quan trọng trong ngành Việt Nam học với sự hợp tác giữa Đại học Columbia và Đại học Fulbright. Sáng kiến chung này bắt đầu từ biên bản ghi nhớ giữa hai trường vào năm 2022. Nền tảng Số hoá Việt Nam được khởi đầu vào năm 2018 với sự đóng góp hào phóng toàn bộ kho tư liệu của Hội Bảo tồn Chữ Nôm Việt Nam cho Đại học Columbia.




Khám phá lịch sử, văn hóa và xã hội Việt Nam thông qua các công cụ tiên tiến và nguồn tư liệu được tinh chọn cho học giả, sinh viên và giáo viên.
Khám phá kho lưu trữ số - nơi dành riêng cho việc bảo tồn và nghiên cứu học thuật về di sản lịch sử, văn hóa & tư tưởng Việt Nam.
Tiếp cận lĩnh vực Nghiên cứu Việt Nam với các công cụ chuyên biệt của Digitizing Việt Nam.
Khám phá và giảng dạy ngành Việt Nam học một cách hiệu quả với tuyển tập giáo trình, kế hoạch bài giảng và tài nguyên đa phương tiện.
Những tin tức và khám phá mới nhất về hành trình số hóa, bảo tồn và nghiên cứu di sản Việt Nam.

Ngày 5 tháng 12 năm 2025, Giáo sư Nicolas Weber đã trình bày về một tác phẩm tự sự bằng thơ của người Chăm ở thế kỷ XIX, The Rhyme of Looking Forward (Điệu thơ Nhìn về phía trước), một trong mười lăm văn bản thuộc dự án sách của ông, Forbidden Voices, Silenced Memory: The Making of a Cham Century (Những tiếng nói bị cấm, ký ức bị câm lặng: Sự hình thành của một thế kỷ Chăm). Dự án này nhằm khôi phục các góc nhìn và ký ức của người Chăm trong tiến trình hình thành Đông Nam Á hiện đại, bằng cách đặt vào trung tâm những tiếng nói lâu nay bị gạt ra ngoài các diễn ngôn lịch sử lấy nhà nước làm trọng tâm.
Sự kiện do Viện Nghiên cứu Đông Á Weatherhead tổ chức và được NYSEAN đồng tài trợ, với phần điều phối của John Phan, Phó Giáo sư ngành Ngôn ngữ và Văn hóa Đông Á, Đại học Columbia.
Thay vì dựa vào các tư liệu lưu trữ đế quốc hay thuộc địa, Giáo sư Weber tập trung vào các bản tự sự bằng thơ của người Chăm—những văn bản được sáng tác bằng chữ Chăm hiện đại và предназнач để ngâm hoặc hát. Các bản tự sự này được lưu truyền qua ký ức, trình diễn và sao chép, tồn tại không phải nhờ các thiết chế chính thức mà nhờ chính cộng đồng. Weber gọi chúng là “những kho lưu trữ sống”: các nguồn tư liệu lưu giữ cảm xúc, suy tư đạo đức và trải nghiệm sống—những điều mà các hồ sơ chính thống thường bỏ quên hoặc xóa nhòa.
Người Chăm là một cộng đồng thuộc ngữ hệ Nam Đảo, là hậu duệ của vương quốc Champa, từng trải dài trên phần lớn khu vực miền Trung Việt Nam ngày nay. Đến đầu thế kỷ XIX, Champa bị thu hẹp chỉ còn lại tiểu quốc phương Nam là Panduranga, với quyền tự trị hạn chế cho đến khi bị triều Nguyễn sáp nhập vào năm 1832, dưới thời vua Minh Mạng. Cuộc sáp nhập này kéo theo sự đàn áp khốc liệt, tái phân chia đất đai, lao dịch cưỡng bức, và sự tan rã của đời sống chính trị cũng như nghi lễ của người Chăm.
Chính trong bối cảnh đó, The Rhyme of Looking Forward ra đời. Thay vì thuật lại sự kiện một cách trực tiếp, bài thơ khắc họa việc sáp nhập như sự sụp đổ của toàn bộ một thế giới đạo lý. Những hình ảnh sấm sét, lửa trời, đất rung chuyển mô tả cuộc chinh phục như một thảm họa vũ trụ, trong khi các cảnh đứt gãy huyết thống và sỉ nhục nghi lễ cho thấy bạo lực đã xâm nhập vào đời sống thường nhật như thế nào. Thông qua hệ thống ẩn dụ dày đặc và đầy bất an, bài thơ ghi lại khoảnh khắc mà một thế giới quan trở nên lung lay.
Hơn một thế kỷ sau, vào năm 1968, trong bối cảnh Chiến tranh Việt Nam, các trí thức Chăm đã tái bản The Rhyme of Looking Forward, đồng thời ghép nó với một văn bản mang tính giáo huấn đạo đức. Như Weber phân tích, sự trở lại này không mang tính hoài niệm. Nó biến ký ức thành kim chỉ nam để định hướng và tồn tại trong một thời kỳ biến động mới, được đánh dấu bởi chiến tranh, xung đột tôn giáo và các áp lực đồng hóa. Việc bài thơ tiếp tục được lưu truyền qua nhiều thế kỷ cho thấy cách các cộng đồng Chăm liên tục quay về với thơ ca để hiểu, đối diện với đứt gãy lịch sử và tái khẳng định nền tảng đạo đức của mình.
Giáo sư Weber kết luận rằng các bản tự sự bằng thơ của người Chăm không phải là những tư liệu bổ trợ bên lề, mà là những lịch sử mang tính phản biện. Chúng phục hồi các tiếng nói bên lề, thách thức những cách kể lịch sử lấy nhà nước làm trung tâm, và nhắc nhở chúng ta rằng lịch sử không chỉ được viết trong kho lưu trữ, mà còn được cất lên bằng tiếng hát, được ghi nhớ và được truyền tiếp trong đời sống cộng đồng.

Một đầu sách mới thuộc Weatherhead Studies làm sáng tỏ những “cách diễn giải mâu thuẫn, thậm chí gần như đối lập” xoay quanh cuộc di cư năm 1954 của hơn 800.000 người Việt Nam.
Hiệp định Genève năm 1954, vốn chính thức chấm dứt Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, đồng thời cũng khởi phát cuộc di cư của hơn 800.000 người Việt Nam từ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (miền Bắc) vào Quốc gia Việt Nam (miền Nam, hay như sau này được gọi là Việt Nam Cộng hòa).
Một đầu sách mới trong bộ Studies of the Weatherhead East Asian Institute, A Displaced Nation: The 1954 Evacuation and Its Political Impact on the Vietnam Wars (tạm dịch là: Một Dân tộc Ly hương: Cuộc Di cư Năm 1954 và Tác động Chính trị của nó Đối với các Cuộc Chiến tranh Việt Nam) (Nhà xuất bản Đại học Cornell) của nhà sử học Nguyễn Phi Vân, đặt cuộc chuyển dịch dân cư quy mô lớn này vào trong một tiến trình lịch sử dài hơi hơn nhiều, một dòng thời gian kéo dài từ Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam năm 1945 cho đến khi các cuộc xung đột với các quốc gia láng giềng kết thúc khoảng 45 năm sau đó, vào thời điểm Chiến tranh Lạnh khép lại.
Bằng việc kể lại những câu chuyện của những người di cư năm 1954 xuyên suốt nhiều thập niên, Nguyễn Phi Vân cho thấy họ là một tập hợp đa dạng và phức tạp hơn rất nhiều so với những hình dung giản lược thường thấy, dù là từ các lực lượng ủng hộ ở hai phía chia cắt Bắc–Nam hay từ các chính phủ nước ngoài có lợi ích gắn liền với cuộc xung đột. Một bộ phận không nhỏ trong số những người mới đến miền Nam Việt Nam xem mình như những kẻ lưu đày ngay trong nội địa; sau họ là thế hệ lưu vong thực sự sau năm 1975, trong đó có những người vẫn níu giữ giấc mơ giành lại những gì đã mất sau cuộc tiếp quản của chính quyền cộng sản, trong khi những người khác trong cộng đồng hải ngoại rốt cuộc đã chọn cách hòa giải với chế độ.
Như Phi Vân viết về những cộng đồng thường xuyên chia rẽ này, ở gần phần cuối cuốn sách của mình: “Người ta từng tự hỏi liệu có thể tồn tại song song nhiều ‘Việt Nam’ hay không. Với một số người, ngày càng trở nên rõ ràng rằng có nhiều Việt Nam cùng tồn tại vượt qua các ranh giới chính trị và tương tác với nhau.”
Nguyễn Phi Vân hiện là Phó Giáo sư tại Khoa Nhân văn và Khoa học Xã hội, Đại học Saint-Boniface, thành phố Winnipeg, tỉnh Manitoba. Qua thư điện tử, bà đã trả lời các câu hỏi của chúng tôi về A Displaced Nation (Một Dân tộc Ly hương).
Tại Hoa Kỳ, ngay cả những người cho rằng mình hiểu biết phần nào về cuộc chiến tranh Việt Nam cũng có thể ít quen thuộc với cuộc di cư năm 1954 và những hệ lụy lan tỏa của nó. Chị có thể khái quát ngắn gọn sự kiện này, và vì sao nó lại có ý nghĩa sâu xa trong nhiều thập niên sau đó không?
Nguyễn Phi Vân:
Cuộc di cư diễn ra sau khi các Hiệp định Genève tạm thời chia cắt Việt Nam tại vĩ tuyến 17, giao miền Bắc cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và miền Nam cho Quốc gia Việt Nam. Theo các điều khoản của lệnh ngừng bắn, các lực lượng vũ trang có thời hạn 300 ngày, bắt đầu từ ngày 21 tháng 7 năm 1954, để tập kết về khu vực thuộc quyền kiểm soát chính trị của mình. Tuy nhiên, Điều 14(d) cũng cho phép thường dân được lựa chọn khu vực họ muốn sinh sống.
Kết thúc giai đoạn chuyển tiếp này, hơn 800.000 người đã rời miền Bắc để vào khu vực phi cộng sản ở miền Nam, trong khi chỉ khoảng 150.000 người di chuyển theo chiều ngược lại ra miền Bắc.
Cuộc di cư này đã khơi dậy một làn sóng đoàn kết rộng lớn, bởi thế giới phương Tây bị lay động trước số phận của những người Việt Nam chạy trốn chế độ cộng sản ở miền Bắc. Sự dịch chuyển dân cư này có tác động rất lớn, không chỉ vì quy mô đông đảo cần được tiếp nhận và tái định cư trong thời gian ngắn. Làn sóng ủng hộ ấy còn góp phần củng cố tính chính danh của chính quyền Sài Gòn, tạo cảm giác rằng họ có được sự ủng hộ nhất định từ quần chúng.
Sự hậu thuẫn trên phạm vi toàn cầu này cũng khiến một bộ phận trí thức và lãnh đạo chính trị trong cộng đồng người di cư tin rằng thế giới phương Tây sẽ không để Việt Nam tiếp tục bị chia cắt và miền Bắc nằm dưới sự quản lý của cộng sản. Một số người cho rằng, nhờ sự ủng hộ rộng rãi ấy, cuộc đấu tranh của chính họ nhằm ngăn chặn sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản, đảo ngược sự chia cắt và trở về miền Bắc cuối cùng sẽ giành thắng lợi. Đáng chú ý là niềm tin này không hề biến mất trong suốt thời chiến, mà còn nhiều lần trỗi dậy trong các thập niên tiếp theo, thậm chí ngay cả sau khi nhiều người trong số họ ra nước ngoài sinh sống sau sự sụp đổ của Sài Gòn.
Trong bài viết của bà trong The Cambridge History of the Vietnam War, Tập I: Origins, chị viết: “Việc tiếp nhận các cách tiếp cận toàn cầu đối với lịch sử các cuộc chiến tranh Việt Nam đã cho phép một sự chú ý mới đến những mối liên kết đa chiều, đa thiết chế và theo chiều dài thời gian (longue durée).” Chị có thể cho biết cách tiếp cận của chị về cuộc di cư năm 1954 và những hệ quả của nó được hưởng lợi như thế nào từ những mối liên kết ấy?
Phi Vân:
Khái niệm longue durée thường được dùng để chỉ một khung thời gian rất dài, một lịch sử gần như bất động, tương phản với các sự kiện đơn lẻ hay các chu kỳ kinh tế – chính trị. Nhưng trong bối cảnh các cuộc chiến tranh Việt Nam, longue durée ám chỉ những tiến trình và động lực lịch sử được hình thành và tích lũy trong khoảng thời gian dài hơn nhiều so với một trận đánh, một chiến dịch quân sự, một nhiệm kỳ tổng thống, hay sự can dự của một bên tham chiến (như Pháp hay Hoa Kỳ). Longue durée ở đây nói đến những quá trình thường xuyên xuyên suốt cả ba cuộc chiến tranh Việt Nam, hoặc kết nối chúng với Chiến tranh Thái Bình Dương, hay với tiến trình phi thực dân hóa diễn ra sớm hơn.
Trong A Displaced Nation, tôi cố gắng cho thấy các cuộc chiến tranh Việt Nam không chỉ là ba cuộc xung đột vũ trang tách biệt: cuộc chiến chống thực dân Pháp (1946–1954), cuộc chiến thống nhất đất nước (1959–1975), và cuộc chiến giữa các “anh em cộng sản” khi Việt Nam đối đầu với hai nước láng giềng Campuchia và Trung Quốc (1978–1989). Chúng đồng thời là một cuộc chiến liên tục giữa chính người Việt với nhau về việc quốc gia hậu thuộc địa sẽ trở thành điều gì.
Việc dịch chuyển các mốc thời gian và đối tượng nghiên cứu cũng giúp mở rộng tầm nhìn của chúng ta. Không chỉ cho phép nhận ra những tính liên tục giữa các cuộc xung đột vũ trang này, việc xem xét cuộc di cư năm 1954 còn giúp ta thấy rõ mạng lưới kết nối xuyên quốc gia phong phú giao cắt tại Việt Nam, cũng như cách con người và ý tưởng lưu chuyển trong các mạng lưới ấy trong suốt thời chiến. Chẳng hạn, cuộc di cư cho thấy các cuộc chiến tranh Việt Nam không chỉ đơn thuần là chiến tranh phi thực dân hóa, hay một mặt trận của Chiến tranh Lạnh, hay một cuộc nội chiến giữa các lực lượng Cộng sản và Quốc gia. Với nhiều thành viên của Giáo hội Công giáo Rôma, đây còn là một cuộc đấu tranh nhằm bảo vệ tự do tôn giáo, xác định vai trò của đức tin Công giáo trong một nền dân chủ, và định hình thành phần cũng như định hướng của Giáo hội trong Việt Nam hậu thuộc địa.

Phía trên: Người Việt Nam di cư lên tàu đổ bộ LST 516 của Hải quân Hoa Kỳ để bắt đầu hành trình từ Hải Phòng (miền Bắc Việt Nam) vào Sài Gòn (miền Nam Việt Nam) trong khuôn khổ Chiến dịch Passage to Freedom, tháng 10 năm 1954.
(Ảnh Hải quân Hoa Kỳ / phạm vi công cộng, qua Wikimedia Commons)
Trong lịch sử này, cách gọi tên có ý nghĩa quan trọng, bởi cùng một nhóm người nhưng vào những thời điểm khác nhau và trong các nguồn tư liệu khác nhau lại được gọi là “người di tản,” “người di cư,” hay “người tị nạn.” (Chưa kể đến thế hệ sau với thuật ngữ “thuyền nhân”.) Vì sao những cách gọi khác nhau này lại quan trọng?
Phi Vân:
Cuộc di cư năm 1954 có ý nghĩa đối với rất nhiều người, nhưng chính sự dịch chuyển dân cư ấy lại mang những ý nghĩa khác nhau tùy theo góc nhìn. Từ quan điểm của Hoa Kỳ, những người rời miền Bắc được xem là nạn nhân chạy trốn sự đàn áp. Cách diễn giải này cho phép Hoa Kỳ ngầm khẳng định rằng Hà Nội là mối đe dọa đối với chính người dân của mình. Như vậy, đây là một cách tiếp tục cuộc chiến bằng những phương tiện khác sau khi lệnh ngừng bắn có hiệu lực. Đồng thời, cách nhìn ấy cũng hàm ý rằng những người tị nạn này sẽ tìm được sự an ổn một khi được tái định cư ở một nơi an toàn.
Tuy nhiên, phần lớn các văn bản và báo chí tiếng Việt thời bấy giờ lại gọi những người rời miền Bắc là “người di cư,” bởi nhiều trí thức và lãnh đạo chính trị trong số họ bác bỏ quan niệm cho rằng mình là nạn nhân và khẳng định rằng việc ra đi chỉ mang tính tạm thời. Họ tin chắc rằng một ngày nào đó mình sẽ trở về miền Bắc.
Điều đáng chú ý là Quốc gia Việt Nam, rồi sau này là Việt Nam Cộng hòa, cũng như nhiều người di cư ấy, đều nhận thức được rằng tồn tại những cách diễn giải mâu thuẫn, thậm chí gần như đối lập, về cuộc di cư. Tuy vậy, họ chấp nhận duy trì sự nhập nhằng đó, bởi đây là cách tốt nhất để thu hút sự chú ý và ủng hộ của thế giới phương Tây.
Thỏa hiệp này trên thực tế phản ánh một vấn đề lớn hơn. Liên minh các quốc gia và các nhóm người cùng liên kết trong cuộc đấu tranh chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản đã làm như vậy vì những lý do khác nhau. Hoa Kỳ muốn ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản tại vĩ tuyến 17, trong khi Sài Gòn muốn xây dựng một nền cộng hòa vững mạnh ở miền Nam. Còn nhiều người di cư thì mong muốn tiếp tục chiến tranh và giải phóng miền Bắc khỏi sự cai trị của cộng sản. Vì thế, Washington, Sài Gòn và những người di cư đã cùng đứng về một phía. Nhưng xét đến cùng, họ theo đuổi những mục tiêu chiến tranh không giống nhau.
Công trình của bà khép lại bằng một đoạn văn đầy xúc động khi bà viết: “Sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh cuối cùng đã khiến nhiều người di cư phải thừa nhận rằng Việt Nam trong trí tưởng tượng của họ sẽ không bao giờ tồn tại trong những đường biên giới mà họ từng hình dung. Việt Nam sẽ tiếp tục tồn tại vượt qua các lục địa.” Tôi muốn bà nói thêm đôi chút về ý niệm một quốc gia vượt lên trên các ranh giới địa lý và chính trị—và hình hài của nó có thể ra sao vào năm 2025, tức 50 năm sau khi cuộc chiến tranh của Mỹ kết thúc.
Phi Vân:
Trong một thời gian rất dài, chúng ta thường nhìn các cuộc chiến tranh Việt Nam như một cuộc đấu tranh kéo dài nhằm kiến tạo một quốc gia–nhà nước. Tuy nhiên, xung đột vũ trang ấy đã tạo ra những làn sóng dịch chuyển dân cư quy mô lớn. Đôi khi, những tầm nhìn khác về quốc gia–nhà nước đã theo chân những con người ấy ra nước ngoài, và niềm hy vọng được trở về Việt Nam mà một số người nuôi dưỡng thậm chí còn sống dậy trong thời kỳ Chiến tranh Đông Dương lần thứ ba. Những dự án ấy đã thay đổi kể từ khi chiến tranh kết thúc, nhưng sự đứt gãy giữa các tầm nhìn khác nhau về quốc gia–nhà nước thì vẫn còn tồn tại.
Việc Việt Nam mở cửa từ năm 1986 đã gia tăng cơ hội đi lại cho người Việt và tạo điều kiện để các gia đình đoàn tụ. Người Việt ở hải ngoại trở về quê hương để thăm viếng, làm việc hoặc nghỉ hưu; đồng thời, người từ Việt Nam cũng ra nước ngoài để học tập, lao động hoặc sinh sống. Tuy vậy, sự lưu thông của con người—cùng với dòng chảy của hàng hóa và ý tưởng—không hề củng cố một tầm nhìn duy nhất về quốc gia–nhà nước. Thực tế, 50 năm sau khi chiến tranh kết thúc, “Việt Nam” vừa là một quê hương chung, nơi xuất phát của tất cả những con người ấy, vừa là một cộng đồng hải ngoại phân tán khắp toàn cầu.

Bức tranh biếm họa chính trị do Bích Kích Pháo thực hiện vào tháng 8 năm 1955 châm biếm việc Việt Nam bị các cường quốc ngoại bang chia cắt. Gấu Nga và gà trống Pháp đang yến tiệc, sư tử Anh và đại bàng Mỹ háo hức nhập cuộc, còn chú bồ câu Việt Nam nhỏ bé nằm giữa bàn tiệc, trong khi Thiên thần Hòa bình đứng bên quan sát với vẻ bất an. Hình ảnh này được in lại trong A Displaced Nation: The 1954 Evacuation and Its Political Impact on the Vietnam Wars của Nguyễn Phi Vân.
Jeff Tompkins
Ngày 3 tháng 12 năm 2025

Số chuyên đề này của Sungkyun Journal of East Asian Studies phản ánh định hướng mới của tạp chí—từ năm 2019—tập trung vào các chủ đề nhân văn trước năm 1945 trong “vòng văn hóa Hán tự,” một không gian văn hóa được định hình bởi văn ngôn Hán (LS). Việt Nam, với tư cách là một phần của thế giới này, ngày càng xuất hiện nhiều trong các bài gửi đăng gần đây, thúc đẩy ban biên tập tập hợp năm nghiên cứu mới về sự tương tác của Việt Nam với LS.
Bài mở đầu của Nguyễn Tuấn Cường khảo sát cách các học giả Việt Nam thời cận đại đọc và chú giải kinh điển Nho giáo. Tập trung vào Tứ thư ước giải, ông phát hiện những ví dụ hiếm hoi về ngữ pháp Bạch thoại (baihua) được đan xen trong các đoạn chú giải vốn mang tính văn ngôn kinh điển, đồng thời lý giải sự khan hiếm của loại tư liệu này trong kho tàng văn bản Việt Nam.
Tiếp theo, Nguyễn Hoàng Yến phân tích văn bản Nam Nữ Giao Hợp Phụ Luận (1903), lần đầu giới thiệu tác phẩm này đến giới học thuật Anh ngữ. Bà lý giải vì sao tác giả lại chọn viết một luận thuyết về quan hệ nam nữ bằng LS thay vì dùng chữ Nôm, tiếng Pháp, hay Quốc Ngữ, ngay trong cao trào của thời thuộc địa.
Dựa trên chuyên môn về chú giải kundoku của Nhật Bản, Nguyễn Thị Thu Huyền khảo sát Luận ngữ ước giải song ngữ LS–Nôm. Bài viết—lần đầu tiên của tạp chí sử dụng dữ liệu Nôm—chỉ ra cách các nhà chú giải Việt Nam nhận diện và đọc tên riêng trong kinh điển.
Trong bài thứ tư, Yong-tai Kim và Rahel Plassen điểm lại nghiên cứu Hàn Quốc về tư liệu LS Việt Nam, cho thấy các văn bản Việt đóng vai trò như một “tấm gương lịch sử” so sánh. Hai tác giả cũng nêu bật xu hướng nghiên cứu hiện nay và những thách thức thể chế trong giới học thuật Hàn Quốc.
Bài cuối, của Alan Dai, dịch một truyện dài bằng LS đăng nhiều kỳ (1922–23), Record of the History of Korean Aristocrat Lady Yi Adrift. Tác phẩm cho thấy sức sống lâu bền của LS tại Việt Nam và mối liên hệ văn hóa Việt–Hàn kéo dài đến tận thập niên 1920.
Đọc toàn bộ số báo tại đây.