1. Mở đầu
Bài viết này giới thiệu khái quát về các dân tộc và ngôn ngữ, chữ viết, các loại quan hệ ngôn ngữ, sinh thái ngôn ngữ, … ở Việt Nam. Cũng xin trình bày kĩ về tình hình nghiên cứu ở Việt Nam về ngôn ngữ các “dân tộc thiểu số”.
2. Dân tộc và ngôn ngữ ở Việt Nam
Theo điều tra dân số năm 2009, Việt Nam có 54 dân tộc, tổng số dân là 85.846.997 người. Đó là: Kinh, Tày, Thái, Mường, Khơ Me, Hmông, Nùng, Hoa, Dao, Gia Rai, Ê Đê, Ba Na, Sán Chay, Chăm, Cơ Ho, Xơ Đăng, Sán Dìu, Hrê, Ra Glai, Mnông, Xtiêng, Thổ, Bru - Vân Kiều, Khơ Mú, Cơ Tu, Giáy, Ta Ôi, Mạ, Gié - Triêng, Co, Chơ Ro, Xinh Mun, Hà Nhì, Chu Ru, Lào, Kháng, La Chí, Phù Lá, La Hủ, La Ha, Pà Thẻn, Lự, Ngái, Chứt, Lô Lô, Mảng, Cơ Lao, Bố Y, Cống, Si La, Pu Péo, Rơ Măm, Brâu, Ơ Đu.
Trong số 54 dân tộc, dân tộc Kinh có dân số 73. 594. 427 người, chiếm 85,6% tổng dân số cả nước, là “dân tộc đa số”. 53 dân tộc còn lại với dân số 12. 252. 570 người, chiếm 14,4% tổng dân số, là các “dân tộc thiểu số”.
Ở Việt Nam, ngôn ngữ là tiêu chí quan trọng để phân định dân tộc. Theo cách hiểu phổ biến, tương ứng với 54 dân tộc phải là 54 ngôn ngữ. Tuy nhiên, số lượng các ngôn ngữ ở Việt Nam lớn hơn 54: Có những dân tộc gồm các bộ phận nói những ngôn ngữ khác nhau. Việt Nam có khoảng trên 90 ngôn ngữ.
3. Quan hệ cội nguồn và loại hình các ngôn ngữ ở Việt Nam
3.1. Quan hệ cội nguồn:
Theo quan điểm phổ biến, các dân tộc ở Việt Nam nói những ngôn ngữ thuộc 5 ngữ hệ:
- Ngữ hệ Nam Á (Austroasiatic): Việt, Mường, Chứt, Thổ, Khơ Mú, Xinh Mun, Mảng, Kháng, Ơ đu, Cơ Tu, Bru -Vân Kiều, Tà Ôi, Ba Na, Xơ Đăng, Giẻ-Triêng, Hrê, Brâu, Rơ măm, Co, Cơ Ho, Xtiêng, Mạ, Mnông, Chơ Ro, Khơ Me.
- Ngữ hệ Nam Đảo (Austronesian): Chăm, Ra Glai, Gia Rai, Ê Đê, Chu Ru.
- Ngữ hệ Tai – Ka Đai (Tai – Kadai): Tày, Thái, Nùng, Sán Chay (nhóm Cao Lan), Giáy, Bố Y, Cơ Lao, La Chí, Pu Péo, La Ha, Lào, Lự.
- Ngữ hệ Hmông – Miền (Hmong – Mien): Hmông, Dao, Pà Thẻn.
- Ngữ hệ Hán – Tạng (Sino – Tibetan): Hà Nhì, Lô Lô, Phù Lá, La Hủ, Cống, Si La, Hoa, Ngái, Sán Dìu.
3.2. Các ngôn ngữ ở Việt Nam xét về quan hệ loại hình:
Tất cả các ngôn ngữ ở Việt Nam đều cùng một loại hình: loại hình đơn lập.
Các ngôn ngữ đơn lập (còn gọi là “các ngôn ngữ phi hình thái” - isolating languages), có một số đặc tính nổi bật, dễ nhận biết và thường gặp của các ngôn ngữ thuộc loại hình đơn lập như sau:
- Các từ không biến đổi hình thái.
- Các quan hệ ngữ pháp và các ý nghĩa ngữ pháp được biểu thị chủ yếu nhờ trật tự từ và các hư từ.
- Ở nhiều ngôn ngữ thuộc loại hình này, trong vốn từ cơ bản (cơ tầng của từ vựng) phần lớn là các từ có hình thức đơn tiết. Hình thức một âm tiết này cũng thường là của hình vị và từ (“nhất thể ba ngôi”).
Các ngôn ngữ loại hình đơn lập ở Việt Nam được chia thành 3 tiểu loại hình:
- Tiểu loại hình “cổ” (Khơ Me, Cơ Ho, Chăm, Ra Glai,…).
- Tiểu loại hình “trung” (Việt, Dao, Tày, Thái,...).
- Tiểu loại hình “mới”(Hmông, Hà Nhì, Cống, Si La,...).
Xu thế biến đổi về mặt loại hình như đơn tiết hóa, hình thành thanh điệu là những xu thế biến đổi chung của các ngôn ngữ ở Việt Nam.
Ngoài ra, ở Việt Nam còn có các loại quan hệ xã hội – ngôn ngữ: (i) quan hệ giữa tiếng Việt – ngôn ngữ quốc gia với ngôn ngữ các dân tộc thiểu số; (ii) quan hệ giữa ngôn ngữ của dân tộc thiểu số này với ngôn ngữ của dân tộc thiểu số khác; (iii) quan hệ giữa các ngôn ngữ và tiếng địa phương trong nội bộ mỗi dân tộc; và (iv) quan hệ giữa các ngôn ngữ xuyên biên giới (Việt – Trung; Việt – Lào; Việt – Campuchia,...). Đây là kết quả của những tác nhân lịch sử tộc người, quốc gia, khu vực; kinh tế - xã hội; chính trị; văn hóa,… nhưng chủ yếu là kết quả của những cuộc chiến tranh, tình trạng di dân và nhập cư, sự tách ra và sáp nhập lãnh thổ, lối cư trú xen kẽ hay sự cát cứ, sự quy tụ và phân li tộc người.
4. Chữ viết các dân tộc ở Việt Nam
Trong số các dân tộc ở Việt Nam, nhiều cộng đồng đã có chữ viết. Một số dân tộc có nhiều hệ chữ viết, có dân tộc lại chưa có chữ. Một số hệ chữ viết có lịch sử trên dưới nghìn năm, lại có nhiều hệ chữ viết khác, được chế tác gần đây, dựa trên tự dạng latin. Đó có thể là chữ viết ghi ý, ghi âm, hoặc nửa ghi âm nửa ghi ý.
Nói chung ở Việt Nam có 2 loại chữ viết:
- Các hệ thống chữ viết cổ truyền: Đây là các hệ thống chữ viết đã có lịch sử nhiều thế kỉ: chữ Hán, chữ Nôm Việt, chữ Chăm cổ truyền, chữ Khơ Me, chữ Nôm Tày, Nôm Nùng, Nôm Ngạn, Nôm Dao, Nôm Sán Chí, Nôm Sán Dìu, chữ Lự, chữ Thái cổ. Đó là các hệ chữ viết của dân tộc Khơ Me, Thái, Chăm, Tày, Nùng, Dao,....
Chữ Thái cổ, Chăm cổ, Khơ Me dựa trên tự dạng Sanskrit. Chữ cổ của người Tày, Nùng, Cao Lan, Ngạn, Dao (và chữ “Nôm” của người Kinh) thuộc dạng chữ vuông, bắt nguồn từ chữ Hán, có truyền thống vài thế kỉ.
- Các hệ thống chữ viết “mới” (còn gọi là: các chữ viết từ dạng latin): Đây là các hệ chữ viết được chế tác trên cơ sở chữ latin: chữ Quốc ngữ, chữ Ba Na, Gia Rai, Ê Đê, Cơ Ho), Pa Cô-Ta Ôi, Gié-Triêng, Bru-Vân Kiều, Cơ Tu, Ra Glai, Tày– Nùng, Mường, Thái,… Các hệ chữ viết tự dạng latin của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam ra đời trong những thời kì khác nhau. Một số bộ chữ ra đời trước năm 1945 (Ba Na, Gia Rai, Ê Đê, Cơ Ho); phần lớn hệ thống chữ latin được chế tác sau năm 1960.
5. Những nghiên cứu ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết) các dân tộc ở Việt Nam
(Tiếng Việt là ngôn ngữ quốc gia và có số lượng người nói lớn nhất, đã được nghiên cứu nhiều và tương đối đa dạng. Sau đây, chỉ nói về nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số)
5.1. Thời kì trước năm 1954
Bên cạnh việc nghiên cứu tiếng Việt, các nhà khoa học Pháp thuộc Trường Viễn Đông Bác Cổ đã nghiên cứu một số ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
Viện Viễn Đông Bác cổ (tiếng Pháp: École française d'Extrême - Orient, viết tắt EFEO) là một trung tâm nghiên cứu của Pháp về Đông phương học, chủ yếu trên thực địa. Trong hơn một thế kỉ tồn tại, Viện Viễn Đông Bác cổ đã đạt được nhiều thành tựu về Đông phương học. Tạp chí nghiên cứu Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient (Tập san Viện Viễn Đông Bác cổ, viết tắt BEFEO), đã trở nên quen thuộc trong giới khảo cổ và lịch sử châu Á. Trụ sở đầu tiên của Viện Viễn Đông Bác Cổ ở Sài Gòn - Nam Kì, năm 1900. Năm 1902, trụ sở của EFEO được đặt tại Hà Nội với nhiệm vụ chính là khai quật khảo cổ, thu thập các tài liệu viết tay, bảo tồn các công trình, nghiên cứu về dân tộc học, ngôn ngữ và lịch sử các nước châu Á. Giai đoạn khởi đầu của EFEO ghi dấu ấn nhờ những đóng góp của các học giả, những tên tuổi lớn về Đông phương học như Paul Pelliot, Henri Maspero, Paul Demiéville về Ngôn ngữ học, Louis Finot, George Cœdès về khoa văn khắc Đông Dương, Henri Parmentier về khảo cổ học, Paul Mus về lịch sử tôn giáo... Hiện nay, còn lưu giữ những tài liệu của EFEO nghiên cứu về tiếng Việt, Chăm, Ba Na, Mnông, Cơ Ho, Gia Rai,... và chữ viết của các dân tộc này.
Một số chữ viết được xây dựng từ trước năm 1945: chữ của người Ê Đê, Gia Rai, Ba Na. Đây là những chữ viết do các cố đạo chế tác và đã được sử dụng để truyền giáo, đã phổ biến trong các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Tuy được dùng ngay từ những năm hai mươi của thế kỷ XX, nhưng đến năm 1935, Toàn quyền Đông Dương mới ra Nghị định công nhận bộ chữ viết của người Ê Đê, và cho phép nó được sử dụng trong đời sống. Bộ chữ viết này thực ra đã được cải tiến một số điểm nhất định vào năm 1937. Thời sau, đặc biệt vào những năm cuối thập kỉ 80 của thế kỉ XX, một số người muốn có sự thay đổi nhất định trong hệ thống chữ cái cho đơn giản hơn để đáp ứng nhu cầu in ấn và xuất bản sách vở, tài liệu tiếng Ê Đê.
Một số bộ chữ và các phương án phiên âm khác có từ thời Pháp (như Hmông, Mnông, Chăm Cơ Ho, Ra Glai..., kể cả cách ghi ban đầu của Quốc ngữ), mặc dù cho đến nay không được dùng nữa, nhưng đã là những tư liệu bổ ích cho nghiên cứu chế tác những bộ chữ mới sau này.
5.2. Thời kì từ năm 1954 đến 1975
Đây là thời kì Việt Nam bị chia cắt làm hai miền: Bắc và Nam.
Ở miền Bắc, nhiệm vụ nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số chủ yếu được giao cho Viện Ngôn ngữ học (Viện Khoa học xã hội Việt Nam). Ngoài ra, ở một số trường đại học và Viện Khoa học giáo dục… cũng tiến hành nghiên cứu mặt này hay mặt khác trong ngôn ngữ các dân tộc thiểu số. Chữ Tày - Nùng và chữ viết Hmông được xây dựng và ban hành năm 1961, được sử dụng trong giáo dục song ngữ và in ấn một số tài liệu. Đã có nhiều công trình đã được xuất bản, cả về nghiên cứu cơ bản lẫn thực hành: Ngữ pháp tiếng Tày Nùng (1971), Tìm hiểu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam (1972), Từ điển Mèo - Việt (1971), Từ điển Tày - Nùng - Việt (1974),...
Viện Ngôn ngữ học (thành lập năm 1968, tên tiếng Anh: Institute of Linguistics) có chức năng nghiên cứu những vấn đề cơ bản về lí luận và ứng dụng ngôn ngữ của tiếng Việt, của các ngôn ngữ dân tộc thiểu số và các ngoại ngữ ở Việt Nam, cung cấp các luận cứ khoa học cho việc hoạch định chính sách ngôn ngữ, tổ chức tư vấn và đào tạo sau đại học về ngôn ngữ học,...
Ở miền Nam từ năm 1957, đã có những hoạt động, với các hoạt động nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số, chế tác các hệ thống chữ viết, tiến hành giáo dục song ngữ và truyền đạo.
Tổ chức SIL (còn gọi là "Viện Ngữ học mùa hè", tiếng Anh: Summer Institute of Linguistics), có trụ sở chính tại Dallas, Texas - Hoa Kì. Tổ chức này có mục đích chính là nghiên cứu, thu thập tư liệu về các ngôn ngữ, đặc biệt là những ngôn ngữ ít được biết đến, để mở rộng tri thức ngôn ngữ, thúc đẩy việc biết chữ, dịch Kinh Thánh Kitô giáo sang các ngôn ngữ địa phương và hỗ trợ phát triển ngôn ngữ thiểu số. Từ năm 1957, tổ chức này bắt đầu hoạt động ở miền Nam Việt Nam. Họ đã tiến hành nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số, làm chữ viết, dịch Kinh thánh ra các ngôn ngữ dân tộc thiểu số để truyền đạo Tin lành, đã biên soạn tài liệu dạy song ngữ (sách giáo khoa, ngữ vựng đối chiếu...). Việc dạy – học theo chương trình giáo dục song ngữ được thực hiện. Trên cơ sở những chữ này, nhiều ấn phẩm về tôn giáo và sách giáo khoa bằng chữ viết các dân tộc thiểu số đã ra đời.
Kết quả là từ khi David Thomas người đầu tiên của tổ chức Viện Ngữ học Mùa hè đến Việt Nam cho đến hết 17 năm sau, hàng loạt các hệ thống chữ đã được chế tác và rất nhiều tài liệu cho việc giáo dục song ngữ đã được chuẩn bị. Đã có những tài liệu dạy - học các ngôn ngữ Ba Na, Bru - Vân Kiều, Chu Ru, Cơ Ho, Ê Đê, Mnông, Nùng, Ra Glai, Rơ Ngao, Xơ Đăng, Xtiêng, Thái, Cơ Tu, Hroi, Mường,... Từ năm 1967, SIL đã cấp các tài liệu này cho trẻ em lớp Vỡ lòng theo cách bắt đầu đọc và viết tiếng mẹ đẻ, rồi sau chuyển dần lên các lớp phổ thông học xen kẽ với tiếng Việt (song ngữ), nhằm "chuyển khả năng đọc tiếng mẹ đẻ sang đọc tiếng Việt". Từ năm 1967 đến năm 1975, đã có khoảng 800 -1000 giáo viên (phần lớn là người bản ngữ) đã được huấn luyện và dạy theo các tài liệu nói trên.
Có hàng loạt sách công cụ (từ điển đối chiếu, ngữ vựng) đã được biên soạn bằng các hệ thống chữ kể trên (về sau này có vàỉ hệ thống đã được sửa đổi ít nhiều, ví dụ: Gia Rai, Ba Na, Ê Đê...) chẳng hạn: Học tiếng Ê đê (Nguyễn Hoàng Chừng, 1961), Thổ Dictionary, Thổ - Vietnamese - English (A. C. Day, 1962), Từ điển Êđê - Pháp và Pháp - Êđê (R.P. Louison Benjamin, 1964) của Sedang Vocabulary (Kenneth D. Smith, 1967), Mnong Rơlơm Dictionary (Henry Blood..., 1976), Klei hriăm boh blu Êđê - Ngữ vựng Êđê (Y Cang Niê Siêng, 1979), Chù chìh dò tơtayh Jeh "Ngữ vựng Jeh" (Patrick D. Cohen, 1979), A Rhade - English Dictionary with English - Rhade Finderlist (James A.Tharp and Y Bhăm, 1980), Katu Dictionary: Katu - Vietnamese - Engỉish (N. A. Costello, 1991)..., cùng với các tài liệu hướng dẫn, các bài báo về từng mặt ngữ pháp của các ngôn ngữ (trong đó đối tượng miêu tả được thể hiện bằng chữ của các dân tộc này).
Trước năm 1975, sự nghiệp xây dựng và truyền bá chữ viết không phải chỉ của tổ chức SIL, mà còn của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam. Các cán bộ Mặt trận đã tiến hành xây dựng chữ Cơ Tu, Xơ Đăng, Bru - Vân Kiều, Pa Cô, Hrê, Co, Mnông, Xtiêng..., cải tiến các bộ chữ Ba Na, Ê Đê, Gia Rai và tổ chức truyền bá, sử dụng chữ các dân tộc thiểu số.
5.3. Thời kì từ sau 1975 đến nay
Đây là thời kì Việt Nam thống nhất.
Năm 1981 phương án chữ Thái theo hệ latin cũng được xây dựng. Ngoài việc xây dựng mới các bộ chữ, các cơ quan có trách nhiệm cũng đã cải tiến nhiều bộ chữ như: chữ Cơ Ho (ở Lâm Đồng), chữ Bru - Vân Kiều, Pa Cô - Ta Ôi (ở Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế), chữ Ra Glai (ở Ninh Thuận), chữ Cơ Tu (ở Quảng Nam), chữ Chăm Hroi, chữ Ba Na Kriêm, chữ Hrê (ở Bình Định), chữ Mnông (ở Đắk Nông, Đắk Lắk), chữ Ca Dong (Xơ Đăng) ở Quảng Nam v.v.. Nhiều công trình xuất bản: Ngữ pháp tiếng Cơ ho (1985), Tiếng Pu Péo (1992), Tiếng Rục (1993), Những vấn đề chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam (1993), Ngữ âm tiếng Ê đê (1996), Tiếng Ka tu: Cấu tạo từ (1995), Tiếng Mnông - ngữ pháp ứng dụng (1996), Tiếng Ka tu (1998), Tiếng Bru - Vân Kiều (1998), Tiếng Hà Nhì (2001), Cảnh huống và chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam (2002), Ngữ âm tiếng Cơ ho (2004), Tiếng Mảng (2008), Ngữ pháp tiếng Cơ tu (2011), Tiếng Mảng (2008), Tìm hiểu ngôn ngữ các dân tộc ở Việt Nam (2009), Ngữ pháp tiếng Êđê (2011), Ngữ pháp tiếng Cor (2014), Ngôn ngữ các dân tộc ở Việt Nam (2017), Ngữ pháp tiếng Hmông (2019),...
Những công trình từ điển đối dịch đa ngữ: Từ điển Việt - Gia rai (1977), Từ điển Việt - Cơ ho (1983), Từ điển Việt - Tày - Nùng (1984), Từ điển Thái - Việt (1990), Từ điển Việt - Êđê (1993), Từ điển Việt - Mông (Việt - Hmôngz - 1996), Từ vựng các phương ngữ Êđê (1998), Từ điển Cơ tu - Việt, Việt - Cơ tu (2007), Từ điển Êđê - Việt (2015), Từ điển Việt – Cor, Cor – Việt (2024),...
Đã có không ít những sách dạy-học ngôn ngữ dân tộc thiểu số đã được xuất bản. Đó là, Sách học tiếng Pakôh - Taôih (1986), Hdruôm hră hriăm klei Êđê (1988),Sách học tiếng Bru - Vân Kiều (1986), Sách học tiếng Êđê (1988), Hdruôm hră hriăm klei Êđê (2004), Pơrap Kơtu (Tiếng Cơ tu - 2006), Bôq chù Hrê Bình Đình (Bộ chữ Hrê Bình Định - 2008), Xroi Kool -Tiếng Cor (2014)...
Sau Quyết định 53 - CP của Hội đồng Chính phủ (22/2/1980) Việt Nam về chủ trương đối với chữ viết các dân tộc thiểu số, các trí thức dân tộc thiểu số và các nhà ngôn ngữ học Việt Nam đã tiến hành việc hoàn thiện chữ viết Cơ Ho, Co, Hrê, Ba Na, Ra Glai, Mnông, Xơ Đăng, Cơ Tu, Ca Dong,... và dùng các chữ này biên soạn các sách giáo khoa, từ điển đối dịch, ngữ pháp và đưa vào giảng dạy. Nhiều tác phẩm văn nghệ dân gian: luật tục, trường ca, truyện cổ... đã được sưu tầm, biên dịch và xuất bản qua các chữ này.
Nhiều sáng tác văn học, các sách quảng bá, phổ biến về tri thức phổ thông xuất bản bằng song ngữ Việt - dân tộc thiểu số đã được phổ biến rộng rãi khắp cả nước như: Sóng chụ son sao (dân tộc Thái), Tiếng hát làm dâu (dân tộc Mông), Đăm San, Xinh Nhã (dân tộc Ê Đê), Người Mông nhớ Bác Hồ, Chỉ vì quá yêu (dân tộc Mông), Luật tục dân tộc Gia Rai, Luật tục dân tộc Mnông, Văn vĩ quan làng (dân tộc Tày) v.v.. Gần đây, các tác phẩm sử thi của các dân tộc vùng Trường Sơn, Tây Nguyên như sử thi Xtriêng, sử thi Ra Glai, sử thi Mnông, sử thi Gia Rai, sử thi Ê Đê, sử thi Ba Na… đều được sưu tầm và xuất bản bằng song ngữ.
Trong giáo dục, đến năm 2025 đã có 8 ngôn ngữ dân tộc thiểu số (gồm: Thái, Mông, Ba Na, Gia Rai, Xơ Đăng, Chăm, Khmer, Hoa, Ê Đê) được đưa vào giảng dạy trong các trường tiểu học, phổ thông dân tộc nội trú. Nhiều bộ sách giáo khoa bằng ngôn ngữ dân tộc thiểu số hoặc song ngữ dân tộc thiểu số - Việt đã được biên soạn.
Trên các phương tiện thông tin đại chúng, ngay từ những năm 1956, Đài tiếng nói Việt Nam đã có các chương trình phát thanh bằng tiếng Gia Rai, Ba Na, Ê Đê, Hrê, Mnông và Châu Mạ, sau đó là tiếng Thái, tiếng Mông, tiếng Mường,… đã được thực hiện. Đến năm 2025, đã có gần 30 ngôn ngữ dân tộc thiểu số được phát sóng trên Đài Phát thanh VOV4 và trên Đài Truyền hình VTV5. Các tỉnh có đông người dân tộc thiểu số cũng có các chương trình phát thanh và truyền hình bằng tiếng ngôn ngữ dân tộc thiểu số: Khơ Me, Chăm, Ê Đê, Gia Rai, Ba Na, Cơ Tu, Cơ Ho, Xơ Đăng, Xtriêng, Thái, Mường, Dao, Mông, Mnông, Hrê, Châu Ro, Bru-Vân Kiều, Ta Ôi, Ra Glai,…
Trong sự hợp tác nghiên cứu, nhiều nhà khoa học nước ngoài: Nga, Mĩ, Trung Quốc, Pháp,… đã đến Việt Nam.
Từ những năm 90 của thế kỉ XX, trong khuôn khổ hợp tác Việt - Xô (từ 1979, sau này là Việt - Nga), chương trình Hợp tác Việt-Xô (sau này là Việt - Nga) khảo sát điền dã ngôn ngữ DTTS Việt Nam đã điều tra nhiều ngôn ngữ làm cơ sở biên soạn nhiều công trình dưới dạng tư liệu điền dã: Tiếng La Ha (1986), Tiếng Mường (1987), Tiếng Kxinhmul (1990), Tiếng Pu Péo (1992), Tiếng Rục (1993), Tiếng Cơ Lao (2011).
6. Lời kết
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc và đa ngôn ngữ.
Đã có không ít các ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam được nghiên cứu. Những định hướng:
- Nghiên cứu các ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết) ở diện đồng đại, nhằm phát triển các đặc điểm trong các ngôn ngữ này: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, chữ viết, tiếng địa phương (phương ngữ, thổ ngữ),…
- Nghiên cứu các mối quan hệ ngôn ngữ khác nhau: họ hàng, loại hình, địa lí ngôn ngữ học, tiếp xúc…
- Nghiên cứu sự hành chức của ngôn ngữ trong đời sống: cảnh huống ngôn ngữ, chính sách ngôn ngữ, ngôn ngữ trong giáo dục, văn hoá, trên các phương tiện thông tin đại chúng,…
- Nghiên cứu các ngôn ngữ nhằm các mục đích ứng dụng: giáo dục ngôn ngữ và giáo dục bằng ngôn ngữ, chế tác và cải tiến các bộ chữ, biên soạn các sách công cụ (từ điển, ngữ pháp, sách giáo khoa), xác định thành phần tộc người, sưu tầm vốn văn nghệ dân gian, …
Tuy vậy, đến nay nhiều ngôn ngữ và nhiều mặt trong các ngôn ngữ ở Việt Nam chưa được nghiên cứu đầy đủ. Danh sách các ngôn ngữ trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay mang tính ước định. Chưa xác định được phương cách nào có hiệu quả và khả thi cho giáo dục ngôn ngữ ở các vùng dân tộc thiểu số. Chưa có lối thoát hiệu quả ra khỏi tình trạng mai một của các ngôn ngữ có vị thế thấp và ít người nói, trong điều kiện hiện nay của Việt Nam. Một số ngôn ngữ đang mai một và cũng có những ngôn ngữ đã thành tử ngữ.
Nhân đây, xin được chia sẻ nhận xét của tác giả René Gillouin (trong cuốn sách nhan đề “Từ Alsace đến Flandre: tính thần bí ngôn ngữ học” – trích dẫn theo Phạm Quỳnh [8]):
“Đối với một dân tộc, mất tiếng mẹ đẻ ngang với mất linh hồn”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Baker, Colin (2008), Những cơ sở của giáo dục song ngữ và vấn đề song ngữ , Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
Gregerson, Marilin (1989), “Ngôn ngữ học ứng dụng: Dạy đọc chữ (tài liệu cho các ngôn ngữ thiểu số)”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 4.
Hồng, Nguyễn Quang (2018), Ngôn ngữ. Văn tự. Ngữ văn, Nxb Khoa học Xã hội, H.
Lợi, Nguyễn Văn (1995), “Vị thế tiếng Việt ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 4.
Lợi, Nguyễn Văn (2012), “Công trình tra cứu về ngôn ngữ và vấn đề bảo tồn ngôn ngữ có nguy cơ tiêu vong”, Tạp chí Từ điển học & Bách khoa thư, s. 2(16).
Solncev V.M... [1982], "Về ý nghĩa của việc nghiên cứu các ngôn ngữ phương đông đối với sự phát triển của ngôn ngữ học đại cương", Ngôn ngữ số 4.
Tuệ, Hoàng... (1984), Ngôn ngữ các dân tộc thiểu số Việt Nam và chính sách ngôn ngữ, Nxb. Khoa học xã hội, H.
Quỳnh, Phạm (2007), Tiểu luận (viết bằng tiếng Pháp trong thời gian 1922 – 1932), Nxb. Tri thức, H.
Thông, Tạ Văn (1993), “Mối quan hệ giữa chữ và tiếng các dân tộc thiểu số với chữ và tiếng Việt”, Trong: Những vấn đề chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, H.
Thông, Tạ Văn – Tùng, Tạ Quang (2017), Ngôn ngữ các dân tộc ở Việt Nam, Nxb. Đại học Thái Nguyên.
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc UNESCO Băng Cốc (2007), Tài liệu hướng dẫn Phát triển Chương trình Xóa mù chữ và Giáo dục cho người lớn tại cộng đồng ngôn ngữ thiểu số, NXB Giao thông Vận tải, H.