Tips: Click on any Hán-Nôm character to look it up in the dictionaries.
Sớm lo giữ việc thuốc thang
Chờ ta vài bữa ra trường sẽ hay
Sắm đồ thành phục nội ngày cho xong
Dây rơm
bằng rơm. Mũ bạc: mũ trắng. áo thùng: áo thụng, áo tộng tay
mũ trắng áo phùng
Cứ theo trong
lễ Văn công
sách Gia Lễ của Chu Văn Công tức Chu Hy đời Tống, dạy lễ nghi về tang chế, cưới xin v.v...
mà làm.
Than rằng: mẹ Bắc con Nam
Nước non thăm thẳm đã cam lỗi nghì
Trong mình
không cánh không vây
nói mình không mọc được cánh như chim, mọc được vi (vẩy) như cá để bay thẳng hay bơi thẳng về nhà một mạch cho nhanh chóng
Lấy chi tách dặm lấy gì bôn tang
Ngẩn ngơ người ở, lỡ làng người đị
Một mình trời đất cấm chi
Sao dời, vật đổi
do câu chữ Hán “vật hoán di tinh”: vật đổi sao dời, nói cảnh đổi thay, thời tiết cũng chuyển dời (“sao” là chỉ thời tiết, người xưa thường tính thời tiết theo cái vòng chuyển vần của 28 vì sao trên trời). Một thành ngữ chỉ sự biến đổi nói chung
còn gì mà mong
Hai hàng nước mắt ròng ròng
Tưởng bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu
Cánh buồm bao quản gió xiêu
Nghĩ rằng nước chảy,
chín chiều ruột đau
do câu văn của Tư-Mã Thiên: “Trường nhất nhật nhi cửu hồi”: ruột quặn chín trong vòng một ngày, nói người ta mỗi khi có sự đau thương, ruột thường bị quặn lại nhiều vòng (chín vòng chỉ là nói nhiều vòng thôi). Câu “Quặn đau chín khúc” ở phần dưới đây (câu 1-182) cũng nghĩa là quặn đau chín vòng chứ không phải chín đoạn ruột
.
Thương thay
chín chữ cù lao
tức chín chữ (cửu tự): sinh (sinh đẻ ra), cúc (nuôi nấng nói chung), phủ (vỗ về, vuốt ve), xúc (giữ gìn, xem xét), trưởng (chăm nuôi cho lớn), dục (dây dỗ cho nên người), cố (quay lại nhìn con, quyến luyến mỗi khi đi ra), phục (đi ra rồi lại trở lại, quấn quít không nỡ rời bỏ), phúc (bế ẵm, ấp ủ) ở thơ Lục-Nga Kinh Thi nói chín cái công lao khó nhọc của cha mẹ nuôi con
Tam niên nhũ bộ
ba năm bú mớm (cho bú sữa, mớm cơm)
biết bao nhiêu tình