Tips: Click on any Hán-Nôm character to look it up in the dictionaries.
Chúa đông ra khỏi vườn xuân
Hoa tàn nhụy rữa là rừng bỏ hoang
Hoa xuân mà hết ngàn vàng khôn mua
Một tuần cửa cấm, bốn mùa lạnh tanh
Lênh đênh một chiếc thuyền tình
Mười hai bến nước
có lẽ là một thành ngữ chỉ con số cửa sông hoặc cửa biển của nước ta thời xưạ Bài thơ của Lê Quát đời Trần có câu: “Hải môn thập nhi ngã hoàn sơn”, nghĩa là: một vùng mười hai cửa biển, ta về núi ẩn. Đây nói số phận đàn bà lênh đênh, không biết rõ đâu là bờ bến.
đưa mình vào đâu
Ăn cơm không đũa, ăn trầu không cau
Nàng sao chẳng nghĩ trước sau
Để ôm bức tượng bấy lâu thiệt mình
Nàng rằng: Xưa học sử kinh
Làm thân con gái chữ trinh làm đầu
Chẳng ưa
thói nước Trịnh
nước Trịnh đời Xuân thu, có tiếng là một nước nhiều thói phóng đãng, trai gái thường tụ trên sông Trăn sông Vị, cùng nhau tặng hoa thược dược mà đùa bỡn, còn những chuyện trèo tường, đón ngõ, hẹn nhau ngoài nội cỏ, thì rất phổ biến ở trong nước.
đâu
Hẹn người tới cửa đem dâu tư tình
Kiệm rằng: Đã học sử kinh
Sao không soi xét để mình nằm không
Hồ Dương
theo Hậu Hán thư: Hồ Dương công chúa, chị gái vua Hán Quang Vũ, góa chồng được ít lâu muốn lấy Tống Hoằng (Tống công) một đại thần của Quang Vũ. Hoằng không chịu lấy, quyết giữ trọn tình nghĩa với người vợ “tào khang” của mình (Xem chú thích ở câu 410).
xưa mới góa chồng
Hãy còn nhan sắc Tống công là vừa