Tips: Click on any Hán-Nôm character to look it up in the dictionaries.
Giác Duyên sư trưởng lành lòng liền thương
Gạn
Chữ GẠN này KOM viết với bộ phận biểu âm là chữ BẠN chứ không phải chữ KIỆN (件) như các tự điển Nôm ghị Do ngữ âm cổ có sự biến đổi giữa B và G, ví dụ chữ Nôm GẠT ghi bằng chữ Hán BẠT (拨).
gùng ngành ngọn cho tường
Lạ lùng nàng hãy tìm đường nói quanh
Tiểu thiền quê ở Bắc Kinh
Quy sư quy Phật tu hành bấy lâu
Dạy đưa pháp bảo sang hầu sư huynh
Rày vâng
diện hiến
DIỆN: mặt, HIẾN: dâng.
rành rành
Chuông vàng khánh bạc bên mình giở ra
Xem rồi sư mới
dạy qua
B-T: Xem QUA.
:
“Phải
ni
Chữ Hán NI âm Nôm là NÀY, NƠI đều có nghĩa nhưng không rõ nghĩa bằng âm NI. Hằng Thuỷ là tên một ni sư, do nguyên truyện sư Giác Duyên vô tình nói quen sư Hằng Thuỷ ở Trấn Giang thì Kiều nhận liều đó là sư thầy của mình.
Hằng Thuỷ là ta hậu tình
Ở đây chờ đợi sư huynh ít ngày”.
Gửi thân được chốn am mây
Muối dưa đắp đổi tháng ngày thong dong
Kệ kinh câu cũ thuộc lòng
Hương đèn việc cũ trai phòng quen tay
Sớm khuya
lá bối phướn mây
Lá bối: chỉ kinh Phật, xưa viết vào lá bối. Phướn mây: thứ phướn nhà Phật dài, treo sào rất cao, đệm chữ mây cho hoa mỹ.
Ngọn đèn khêu nguyệt
tiếng chày nện sương
theo B-T là tiếng dùi đánh chuông, báo tan sương, nhưng có lẽ nó còn liên tưởng tới chày ngọc giã sương trong điển LAM KIỀU.