Tips: Click on any Hán-Nôm character to look it up in the dictionaries.
Rằng: "Ngày hôm nọ giao binh,
Thất cơ Từ đã thu linh trận tiền.
Nàng Kiều công cả chẳng đền,
Lệnh
QUÂN
Ở bản A: LỆNH QUAN. Phải chăng là lỗi ấn loát khi in Quốc ngữ? Ở các bản khác (B, C, D và cả bản này) đều LỆNH QUÂN.
lại bắt ép duyên thổ tù.
Nàng đà gieo ngọc chìm châu,
Sông Tiền Đường đó ấy mồ hồng nhan.
Thương ôi! Không hợp mà tan,
Một nhà vinh hiển riêng oan một nàng!
Chiêu hồn thiết vị lễ thường,
Giải oan lập một đàn tràng bên sông.
Ngọn triều non bạc trùng trùng,
VỜI
Ở câu trên, dùng chữ VỊ, nên đọc VỜI hay VỌT? Ở câu này thì dùng dạng BIỂN chứ không phải dạng BỂ: thanh phù là BIẾN, thiếu bộ THỦY!
trông còn tưởng cánh hồng lúc gieo.
Tình thâm biển thảm lạ điều,
Nào hồn tinh vệ biết theo chốn nào?
Cơ duyên đâu bỗng lạ sao,
Giác Duyên đâu bỗng tìm vào đến
NƠI
Chữ NƠI bản này khắc nhầm thành chữ BA.
.
Trông lên linh vị chữ bài,
CHỢT
Ở bản A, bản B là THẤT KINH. Bản B khắc đúng chữ THẤT với nghĩa là “mất”. Riêng ba bản Nôm cổ 1871, 1872, 1879 đều khắc chữ TRẬT; vậy có lẽ phải đọc CHỢT.
kinh mới hỏi: “Những người đâu ta?
"Với nàng thân thích gần xa,
“Người còn sao bỗng làm ma
KHÓC
Các bản B, C, D đều ghi đúng chữ KHỐC với nghĩa là KHÓC. Riêng bản này khắc không chuẩn, trông thành như chữ LÀ.
người?”