Tips: Nhấp vào kí tự Hán Nôm để tra cứu trong từ điển.
Thấy chàng đau nỗi biệt ly,
Nhận ngừng
Nhận đè mối cảm xúc để ngưng dòng lệ, không khóc nữa. Chữ 忍 có thể phiên âm là “nhận”, “nhẫn” hoặc “nhịn”. Chữ “ngừng” trong “Từ điển” của Taberd (1838) không có giảng là nước mắt mà chỉ dịch “đượm ngừng” là oculus lacrymis plenus (mắt đẵm lệ). “Từ điển Việt - Pháp” của J.F.M. Génibrel (1898) cũng không có giảng “ngừng” là nước mắt mà chỉ dẫn một thí dụ “Ngừng hai hàng chân luỵ đượm tuôn” và dịch là Avoir sur son visage deux traces de larmes versées à torrents. Theo thí dụ đó thì “châu luỵ” mới là nước mắt còn “ngừng” là ngừng lại, thôi không khóc nữa nên Génibrel mới dịch là Avoir deux traces de larmes (Có hai vệt nước mắt) tức là đã ngừng khóc rồi. Đào Duy Anh đã phiên âm hai chữ 忍 凝 là “nhịn ngừng” và đã giảng là nén lòng.
ông mới vỗ về
nài khuyên
Nhận ngừng ông mới vỗ về “lại” khuyên (LVĐ)
Nhận ngừng ông mới vỗ về “giải” khuyên (KOM)
:
“Bây giờ ván đã đóng thuyền,
Đã đành phận bạc, khôn đền tình chung.
Quá thương chút nghĩa đèo bòng.
Nghìn vàng thân ấy
thôi hòng
Nghìn vàng thân ấy “thì” hòng bỏ sao (LVĐ)
bỏ sao?”
Nặng lòng thương phận thơ đào
“Dỗ dành khuyên giải trăm chiều” (LVĐ)
,
Sẻ lòng, đoài chút tuổi cao thân tàn
“Lửa phiền càng dập, càng khêu mối phiền” (LVĐ).
Hai câu này bản Tăng Hữu Ứng cũng chép như bản Lâm Nọa Phu.
.
Thề xưa giở đến kim hoàn,
Của xưa lại giở đến đàn đến hương.
Sinh càng trông thấy càng thương,
Gan càng tức tối, ruột càng xót xa.
Rằng: “Tôi trót quá
chân
Rằng: Tôi trót quá “trời” ra (LVĐ)
ra,
Để cho đến nỗi trôi hoa dạt bèo.