Tips: Click on any Hán-Nôm character to look it up in the dictionaries.
Kíp truyền
vội ra lệnh cho sai nha.
sắm sửa lễ công,
Kiệu hoa cất gió, đuốc hồng ruổi sao.
Song song đưa tới trướng đào sánh đôi.
Thương vì hạnh, trọng vì tài.
Thúc ông thôi cũng dẹp lời
phong ba
(gió-sóng) ý nói cơn giận giữ mạnh như sóng gió ầm ầm nổi lên.
.
Huệ hương sực nức một nhà,
Từng cay đắng, lại mặn mà hơn xưa.
Mảng vui
mải vui, những vui... mà quên đi mọi việc khác.
rượu sớm cờ trưa,
Đào đà phai thắm,
sen vừa nảy xanh
ý nói mùa hè đã sang.
.
Trướng hồ vắng vẻ đêm thanh,
E tình
có sự e ngại trong lòng. Thuý Kiều nghĩ đến vợ cả của Thúc sinh là Hoạn thư mà lòng những e ngại.
nàng mới bày tình riêng chung:
Phận bồ từ vẹn
chữ tòng
chữ tòng phu, chỉ người con gái lấy chồng phải theo chồng.
,
Đổi thay nhạn cá đã cùng đầy niên.
Tin nhà ngày một vắng tin,
Mặn tình cát luỹ, lạt tình
tao khang
(“tao”: bã rượu, “khang”: cám gạo) chỉ người vợ cả lấy từ lúc còn nghèo túng, chưa làm nên. Chữ này nguyên ở lời Tống Hoằng, đời nhà Hán. Vua Quang Vũ có người chị gái mới goá chồng muốn gả cho Tống Hoằng. Hoằng thưa rằng: “Tao khang chi thế bất khả hạ đường” (vợ từ hồi ăn bỗng cám với nhau không thể cho xuống nhà dưới được). Vua biết ý vậy rồi thôi.
.
Nghĩ ra thật cũng nên dường,
Tăm hơi ai kẻ giữ giàng cho ta?
Trộm nghe kẻ lớn trong nhà,
Ở trong khuôn phép, nói ra mối giường.
E hay những dạ
phi thường
khác thường.
,
Dễ dò rốn bể, khôn lường đáy sông!
Thế nào cũng chẳng dấu xong được nào.