Tips: Click on any Hán-Nôm character to look it up in the dictionaries.
Sân rêu chẳng vẽ dấu đầy,
Cỏ cao hơn thước, liễu gầy vài phân.
Đoái thương muôn dặm
tử phần
chỉ quê nhà. Chữ “tử” lấy ở Kinh Thi: Duy tang dữ tử, tất cung kính chỉ = cây dâu và cây tử do cha mẹ trồng tất phải cung kính giữ gìn. Chữ “phần” do tên làng của Hán cao tổ là Phần du ở ấp Phong. Khi đã lên ngôi vua, Cao tổ có về quê cũng lễ. Người đời sau mới dùng chữ đó để chỉ quê hương.
,
Hồn quê theo ngọn
mây Tần
mây trên núi Tần Lĩnh, ý nói đến sự nhớ nhà. Thơ Hàn Dũ có câu “Vân hoành Tần Lĩnh gia hà tại” = mây kéo ngang núi Tần Lĩnh, nhà ta ở chỗ nào?
xa xa.
Xót thay huyên cỗi xuân già,
Tấm lòng thương nhớ biết là có nguôi?
Chốc là mười mấy năm trời,
Còn ra khi đã
da mồi tóc sương
da lốm đốm như màu mai đồi mồi, tóc trắng như sương, ý nói đã già lắm rồi.
.
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,
Dầu lìa tơ ý còn vương tơ lòng.
May ra khi đã tay bồng tay mang.
Tấc lòng
cố quốc
nước cũ tức quê hương.
tha hương
(“tha”: khác, “hương”: làng) ý nói ở nơi đất khách quê người.
.
Đường kia nỗi nọ ngổn ngang bời bời.
Cánh hồng
(“hồng”: loài ngỗng trời) cánh chim hồng, ý nói người anh hùng tung hoành bốn phương như cánh chim hồng bay bổng.
bay bổng tuyệt vời,
Đã
mòn con mắt
ý nói trông chờ đã lâu lắm mà không thấy.
phương trời đăm đăm.
Đêm ngày luống những âm thầm,
Lửa binh đâu đã ầm ầm một phương!
Ngất trời sát khí mơ màng,
Đầy sông
kình ngạc
(“kình”: cá mập, “ngạc”: cá sấu) hai thứ cá dữ, ví với quân giặc dữ tợn.
, chật đường
giáp binh
(“giáp”: áo giáp, “binh”: binh khí) nói chung là binh khí, dùng rộng nghĩa là để chỉ binh sĩ có trang bị khí giới.
.
Người quen kẻ thuộc chung quanh,
RỦ nàng hãy tạm lánh mình một nơi.
Nàng rằng: "Trước đã hẹn lời,
Dẫu trong nguy hiểm dám rời ước xưa!"