Tips: Nhấp vào kí tự Hán Nôm để tra cứu trong từ điển.
Một mình lưỡng lự
canh chầy
canh khuya.
,
Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh!
Hoa trôi, bèo dạt, đã đành.
Biết duyên mình, biết phận mình thế thôi!
Nỗi riêng lớp lớp sóng trôi,
Nghĩ đòi cơn, lại sụt sùi đòi cơn.
Giọng kiều
giọng của Thuý Kiều. Các bản nôm KOM-QVĐ đều viết 嬌 (kiều). Chữ kiều này có nghĩa là vẻ mềm mại đáng yêu nên xưa kia gọi con gái là a kiều.
rền rĩ trướng loan,
Nhà huyên
chỉ người mẹ, dịch chữ “huyên đường”; chữ lấy ở bài Bá hề (Kinh Thi): “Yên đắc huyên thảo, ngôn thụ chi bối” = mong được cỏ huyên để trồng vào bên nhà phía bắc. Chữ “huyên” 諼 nguyên nghĩa là quên, dùng với chữ “thảo” mới có ý nghĩa là cây quên sầu. Về sau người ta lại viết chữ “huyên” 萱 để chỉ cỏ huyên cũng gọi là “vong ưu thảo” hoặc “nghi nam”. (sách thuốc xưa nói đàn bà “có thai” đeo hoa cây ấy thì sinh con trai).
chợt tỉnh hỏi cơn cớ gì?
"Cớ sao trằn trọc canh khuya,
Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa?"
Thưa rằng: "Chút phận ngây thơ,
Dưỡng sinh
cha sinh mẹ dưỡng, chỉ công ơn cha mẹ.
đôi nợ tóc tơ chưa đền.
Buổi ngày chơi mả Đạm Tiên,
Nhắp
chợt ngủ đi.
đi thoắt thấy ứng liền chiêm bao.
Đoạn trường là số thế nào,
Bài ra thế ấy, vịnh vào thế kia.
Cứ trong
mộng triệu
điều chiêm bao thấy trong mộng báo trước sự việc sẽ xảy ra.
mà suy,
Phận con thôi có ra gì mai sau!"
Dạy rằng: "Mộng triệu cứ đâu,
Bỗng không mua não,
chuốc sầu
tự mua lấy cái sầu não vào mình.
nghĩ nao!
Vâng lời khuyên giải thấp cao,
Chưa xong điều nghĩ, đã dào mạch sương.
Ngoài song thỏ thẻ
oanh vàng
<240> bông liễu: hai câu này, ý nói Kiều nghe chim oanh hót, thấy bông liễu bay thì nghĩ đến tình duyên của mình.
,
Nách tường bông liễu bay ngang trước mành.