Tips: Nhấp vào kí tự Hán Nôm để tra cứu trong từ điển.
Những là đo đắn ngược xuôi,
Tiếng gà nghe đã gáy thôi mé tường.
Lầu mai
lầu canh, chòi canh lúc gần sáng.
vừa rúc
còi sương
nói rúc còi lúc trời chưa sáng, hãy còn hơi sương.
,
Mã sinh giục rạo vội vàng ra đi.
Đoạn trường thay lúc phân kỳ,
Vó câu
vó ngựa.
khấp khểnh bánh xe gập ghềnh.
Bề ngoài mười dặm
trường đình
(“trường”: dài, “đình”: cái đình, cái quán) cái nhà trạm. Đời tần cứ mười dặm đường thì đặt một cái nhà trạm để cho khách nghỉ chân.
,
Vương Ông mở tiệc
tiễn hành
(“tiễn”: đưa chân, “hành”: đi) khi sắp đi xa người ta thường làm tiệc rượu đưa nhau gọi là “tống tiễn” hay “tiễn hành”.
đưa theo.
Ngoài thì chủ khách dập dìu,
Một
nhà huyên
“huyên đường” chỉ người mẹ, đây là Vương bà. Xem chú thích câu 224.
với một Kiều ở trong.
Nhìn càng lã chã
giọt hồng
giọt lệ. Xem chú thích câu 762.
,
Rỉ tai nàng mới giải lòng thấp cao.
"Hổ sinh ra phận
thơ đào
chỉ thân phận yếu đuối như cây đào non. Ta thường nói: yếu liễu thơ đào.
,
Công cha nghĩa mẹ kiếp nào trả xong?
Lỡ làng
nước đục bụi trong
nước trong mà hoá ra đục, bụi bẩn đục mà hoá ra trong sạch, chỉ cảnh huống trái ngược, như thân ngàn vàng mà lại ngửi vào giống hôi tanh không còn phân biệt gì đục trong nữa.
,
Trăm năm để một tấm lòng từ đây.
Xem gương
xem bộ dạng Mã Giám sinh.
trong bấy nhiêu ngày,
Thân con
chẳng kẻo
e rằng, chắc rằng.
mắc tay bợm già.
Khi về bỏ vắng trong nhà,
Khi vào
dồi dắng
nên đọc là “dùng dắng”. Coi bộ ngập ngừng, không đàng hoàng. Bản nôm KOM viết là dồi dằng 𣼭 孕; vì chữ dồi 𣼭 giống chữ 堆 đôi và chữ dắng 孕 giống chữ đoá 朶, nên BK-TTK đã phiên âm là đôi đoá. Thực ra hai chữ ấy là “dồi dắng”. Trương Vĩnh Ký đã phiên âm là “dùi dắng”: chữ này cúng có nghĩa như “dồi dắng”, “dùi dắng”, “dùng dắng”. Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của có ghi đủ mấy chữ này.
, khi ra vội vàng.
Khi thầy, khi tớ xem thường xem khinh.
Khác màu kẻ quý người thanh,
Ngẫm ra cho kỹ như hình con buôn