Tips: Nhấp vào kí tự Hán Nôm để tra cứu trong từ điển.
Đổi hoa lót xuống chiếu nằm,
Bướm ong
Bướm ong: ví với khách làng chơi hiếu sắc.
bay lại ầm ầm
tứ vi
Tứ vi: (*vi*: vòng vây) bốn phía.
!
Kiều còn ngơ ngẩn biết gì?
Cứ lời lạy xuống mụ thì khấn ngay:
"Cửa hàng buôn bán cho may,
Đêm đêm
hàn thực
Hàn thực: ngày ăn đồ nguội (lạnh), ở vào khoảng 105 ngày sau tiết Đông Chí, để tưởng nhớ Giới Tử Thôi. Theo Hậu Hán thư, Giới Tử Thôi giúp Tấn Văn Công khôi phục được đất nước nhưng đã không được nhà vua trọng dụng, ông bèn vào rừng ở ẩn. Vua cho người đi mời về, ông nhất định không chịu về. Nhà vua không biết làm thế nào đã cho đốt rừng. Ông vẫn ở trong đó chịu chết. Nhà vua thương tiếc mới đặt ra lễ Hàn thực, cấm lửa ba ngày chỉ ăn đồ nguội.
,
ngày ngày
Ngày ngày: đúng ra phải nói là “đêm đêm”.
Nguyên tiêu
Nguyên Tiêu: đêm tiết Thượng nguyên, tức rằm tháng riêng âm lịch. Tục xưa ở Trung Quốc đêm ấy thắp đèn vui chơi suốt đêm.
.
Muôn nghìn người thấy cũng yêu,
Xôn xao
anh yến
Anh yến: tên hai thứ chim, con trống con mái thường hay cặp với nhau nên được dùng để ví với cảnh trai gái giao du thân mật với nhau.
, dập dìu
trúc mai
Trúc mai: cây trúc, cây mai, vì hai cây thường đươcj bày gần nhau hoặc được vẽ thành cặp với nhau nên được dùng để ví với tình nghĩa thân thiết. Cả câu ý nói lúc nào cũng có đông khách làng chơi đến với Thuý Kiều.
.
Tin nhạn
Tin nhạn: (*nhạn*: loài ngỗng trời). Hán thư chép rằng: Tô Vũ đời Hán samg sứ Hung Nô bị bắt đi chăn dê ở phương Bắc. Sau hai nước hoà thân với nhau. Vua Hán đòi lại Tô Vũ nhưng chúa Thiền Vu nói rằng Tô Vũ đã chết. Thường Huệ bày mưu cho vua Hán, nói rằng có bắt được một con chim nhạn, chân nó có buộc lá thư của Tô Vũ gửi về. Thiền Vu sau đó phải tìm Tô Vũ để trả lại cho vua nhà Hán. Do điển đó tin nhạn được dùng để chỉ tin tức.
vẩn
Vẩn: đến thật nhiều, rối bời lên.
, lá thơ
bài
Bài: [ ] bày ra đầy bàn, ý nói thật nhiều. Chữ [ ] cũng có thể đọc là bời có nghĩa là ngổn ngang, nhiều đến rối bời lên, hết lá thư này lại đến lá thư khác.
,
Đưa người cửa trước, rước người cửa sau!"
Lạ tai nghe chửa biết đâu,
Xem tình ra cũng những màu dở dang.
Lễ xong
hương hoả gia đường
Hương hoả gia đường: bàn thờ tổ tiên, đây là bàn thờ thần Bạch mi, ông tổ thanh lâu.
,
Tú bà
vắt nóc
Vắt nóc: ngồi lên cao và vắt chéo hai chân lại.
lên giường ngồi ngay.
Dạy rằng: "Con lạy mẹ đây,
Lạy rồi thì lạy
cậu mày
Cậu mày: chữ cậu có nghĩa là bố chồng. *Cậu* là chữ nôm, *cữu* là chữ Hán. Chữ *cữu* có mấy nghĩa như sau:
1. anh em với mẹ mình;
2. bố chồng (con dâu gọi bố chồng bằng cữu);
3. bố vợ (chồng gọi bố vợ là ngoại cữu);
4. các anh em vợ cũng gọi là cữu. Như vậy Tú bà bắt Kiều gọi mình là mẹ thì cũng coi Kiều là con dâu nên đã bắt Thuý kiều gọi Mã Giám sinh bằng cậu tức bố chồng là đúng rồi. Tú bà coi Mã Giám sinh là chồng của mình. Nguyên truyện đã viết: Kiều đạo: Tha thị trượng phu, dữ ngã đồng miên đồng túc, kim nhật chẩm ma giáo ngã khiếu tha tố cá cữu cữu? Tú mụ thính liễu; cấp đắc tam thi thần bạo khiêu. Đạo: Giá đẳng thuyết lai, nễ yếu chiếm ngã đích lão công liễu! (Kiều rằng: Ông ấy là chồng tôi, đã ăn nằm với tôi, hôm nay sao lại bảo tôi kêu ông ấy bằng cậu? Tú bà nghe đoạn thần tam Bành tức thì nổi dậy. Mụ nói: Cứ lời mày nói đó thì mày đã chiếm mất chồng tao rồi.)
ngộ kia!"
Nàng rằng: "Phải bước
lưu ly
Lưu ly: trôi nổi xa lìa quê hương.
,
Phận hèn vâng đã cam bề
tiểu tinh
Tiểu tinh: sao nhỏ, chỉ người vợ lẽ, chữ lấy trong Kinh Thi, bài Tiểu tinh.
.
Điều đâu
lấy yến làm anh
Lấy yến làm anh: ý nói đâu có sự đổi ngôi, từ chỗ lấy lẽ xuống làm con dâu được.
,
Ngây thơ chẳng biết là
danh phận
Danh phận: danh hiệu và chức phận, vợ lẽ hay con dâu.
gì.
Đủ điều
nạp thái
Nạp thái: lễ dẫn cưới.
vu qui
Vu qui: lễ rước dâu.
,
Đã khi xuồng xã, lại khi đứng ngồi.
Giờ ra thay bậc đổi ngôi,
Dám hô gửi lại một lời
cho minh
Cho minh: cho rõ ràng.
."