Một nhu cầu cấp thiết đang đặt ra cho những người làm công tác khoa học trong lĩnh vực Hán Nôm là phải đổi mới tư duy lý luận, nâng cao nhận thức lý thuyết về đối tượng quản lý và nghiên cứu của mình. Có như vậy mới có thể xây dựng được cơ sở khoa học cho việc định hướng, xác lập và tổ chức các hoạt động khoa học trên những quy mô rộng lớn, cũng như trên từng đề tài và công việc cụ thể.
Bước đầu đề cập vấn đề này, chúng tôi tạm chưa đi sâu vào mọi khía cạnh, mọi chi tiết của nó, mà chủ yếu xuất phát từ phương pháp luận khoa học ngữ văn, kết hợp với tình hình thực tế có thể quan sát được ở nước ta, cố gắng xác lập những cách nhìn khái quát và cần thiết đối với di sản Hán Nôm, góp phần hình dung và định hướng các hoạt động khoa học trên tư liệu Hán Nôm, một bộ phận quan trọng trong toàn bộ các di sản ngữ văn của dân tộc.
1. Di sản Hán Nôm trong toàn bộ di sản ngữ văn của dân tộc Việt Nam
Di sản văn hoá nói chung của một dân tộc, một đất nước, có thể bao gồm nhiều thành phần, nhiều kiểu loại khác nhau, từ văn hoá vật chất đến văn hoá tinh thần, văn hoá vật thể đến văn hoá phi vật thể. Trong kho tàng những di sản văn hoá tinh thần phi vật thể và có thể cả vật thể của một dân tộc thì chiếm một vị trí quan trọng là những di sản mang tính chất ngữ văn.
Ngữ văn, theo cách hiểu của khoa học ngày nay, là toàn bộ những phát ngôn do con người tạo ra bằng phương tiện ngôn ngữ. Mỗi phát ngôn mà được hoàn chỉnh và định hình bằng cách nào đó được gọi là một tác phẩm ngôn từ (gọi tắt là ngôn từ). Tuỳ theo cách thức định hình vật chất, ta có thể phân chia các ngôn từ thành nhiều loại hình khác nhau: ngôn từ nói miệng, ngôn từ viết tay, ngôn từ in ấn, v.v… (1)
Khi một dân tộc nào đó chưa đặt ra được chữ viết cho ngôn ngữ của mình, mà cũng chưa biết mượn dùng ngôn ngữ văn tự của một dân tộc nào khác thì mọi tác phẩm ngôn từ của họ chỉ là những lời nói miệng. Và trong tình trạng đó, di sản ngữ văn của họ chỉ có thể là những ngôn từ truyền miệng mà thôi (như: thành ngữ, tục ngữ, ca dao, vè, truyện kể, v.v…). Nhưng một khi họ đã biết sử dụng chữ viết (bất kể là tạo ra hay vay mượn của dân tộc khác) để viết nên những ngôn từ thành văn – tức là những văn bản (hiểu theo nghĩa gốc của từ này) thì nền văn hoá tinh thần của dân tộc đó bắt đầu bước vào một giai đoạn mới, giai đoạn có văn hiến (cũng hiểu theo nghĩa gốc của từ này).
Cũng cần lưu ý rằng, các tác phẩm ngôn từ thuộc di sản ngữ văn của một dân tộc là truyền miệng hay thành văn, có thể là được tạo ra và tồn tại một cách tự thân (như: tục ngữ, câu đố, ca dao, sách vở, công văn, thư từ, v.v…) nhưng cũng có thể là kèm theo cùng các loại hình di sản văn hoá khác (chẳng hạn: lời ca trong dân gian, các bài văn, bài thơ, câu đối, khắc ở bia ở chuông, tháp, đền chùa, lâu đài, v.v…)
Từ sự hình dung trên đây về di sản ngữ văn nói chung, nhìn vào thực tiễn hoạt động ngôn ngữ - văn tự ở Việt Nam, ta dễ dàng nhận thấy rằng, trong toàn bộ di sản ngữ văn nước ta, có mặt đầy đủ tất cả các loại hình ngôn tử kể trên, bao gồm những kho tàng ngôn từ truyền miệng dân gian khá phong phú và đa dạng, cùng với kho tàng các văn bản chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ và nhiều thứ chữ khác của các dân tộc, được viết tay và nhân bản bằng phương pháp thủ công (chủ yếu là khắc, in mộc bản), do nhiều thế hệ người các dân tộc Việt Nam tạo ra và lưu truyền đến ngày nay.
Chỉ xét về mặt loại hình ngôn ngữ - chữ viết thì các di sản ngôn từ thành văn của nước ta có thể phân biệt với nhau theo hai bước như sau:
- Ở bước thứ nhất ta có: (A) – các văn bản được viết vằng văn tự thuộc hệ chữ cái La-tinh, phân biệt với (B) – các văn bản không thuộc hệ chữ cái La-tinh.
- Ở bước thứ hai ta có: (B1) – các văn bản được tạo ra từ các văn tự theo hệ chữ vuông (chữ Hán, chữ Nôm của người Việt và các dân tộc anh em như Tày, Mèo, Dao) phân biệt với (B2) – các văn bản không thuộc hệ chữ La-tinh nhưng cũng không thuộc hệ chữ vuông Hán (mà chủ yếu là thuộc hệ chữ Phạn như văn tự cổ của các dân tộc Thái, Chăm, Khmer, v.v…).
Dĩ nhiên là không loại trừ khả năng có những tác phẩm trong đó người ta đã sử dụng đồng thời mấy thứ ngôn ngữ - văn tự khác nhau. Chẳng hạn: trong kho sách của Viên Nghiên cứu Hán Nôm ở Hà Nội hiện nay, có không ít tác phẩm thuộc loại “giải âm”, “diễn nghĩa” từ Hán sang Nôm và cả chữ Quốc ngữ, chữ Pháp, v.v… Đối với các văn bản loại này, phải tuỳ theo mức độ và tính chất của sự phối hợp hay xen kẽ thứ chữ này với thứ chữ khác mà tiến hành phân biệt, xử lý cụ thể.
Sự phân biệt các di sản ngôn từ thành văn của nước ta theo tiêu chí loại hình ngôn ngữ - văn tự như trên đây tuyệt nhiên không phải chỉ là một thao tác thuần tuý hình thức. Thực ra trong đó có phản ánh những nhân tố lịch sử - văn hoá rất quan trọng. Ở bước thứ nhất, khi phân biệt các văn bản thuộc hệ chữ cái La-tinh (A) với những văn bản còn lại không thuộc hệ chữ này (B), chúng ta cũng đồng thời phân biệt trên đại thể một đằng là các văn bản xuất hiện từ thời cận đại về sau trong quan hệ tiếp xúc với văn minh phương Tây (châu Âu); và đằng khác là những văn bản ra đời trong quan hệ tiếp xúc với văn minh phương Đông (châu Á) vốn gắn liền với lịch sử lâu dài của dân tộc Việt Nam từ thời cổ đại, trung đại cho đến những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XX. Ở bước thứ hai, khi phân biệt các văn bản thuộc hệ chữ vuông Hán (B1) với những văn bản phi La-tinh khác mà không thuộc hệ chữ vuông (B2), chúng ta cũng đồng thời tìm thấy mối liên hệ giữa sự phân biệt theo hệ chữ viết như thế với hai nền văn hiến khác nhau mà các dân tộc Việt Nam đã tiếp thu: văn hiến Trung Hoa (đối với B1) và văn hiến Ấn Độ (đối với B2) (2) .
Đến đây thì sự hình dung lý thuyết xét từ góc độ ngữ văn học đối với Di sản Hán Nôm hầu như đã được rõ nét. Đó là những tác phẩm ngôn từ thành văn do người Việt Nam tạo ra hoặc tham gia sáng tạo, chủ yếu dựa vào ngôn ngữ - văn tự Hán cổ và ngôn ngữ - văn tự của các dân tộc Việt Nam thuộc hệ chữ vuông (các loại chữ Nôm) được định hình và nhân bản bằng các phương tiện thủ công (viết tay, chạm khắc, khắc in mộc bản, v.v…), làm thành một bộ phận quan trọng trong toàn bộ di sản thành văn của các dân tộc Việt Nam.
Đối với với kho tư liệu thực tế các văn bản Hán Nôm mà chúng ta hiện có thì sự hình dung lý thuyết nêu ra trên đây là phù hợp và bao quát được hầu hết các hiện tượng vẫn được coi là di sản Hán Nôm. Dĩ nhiên là có thể gặp một số trường hợp ngoại lệ mà ở đó sự định hình và lưu truyền các văn bản có mang những “số phận” đặc biệt (3).
Di sản Hán Nôm trước hết vẫn là một phạm trù văn hoá – lịch sử. Cho nên không phải bất kỳ văn bản hay hiện tượng chữ Hán, chữ Nôm nào cũng đều được coi là di sản Hán Nôm. Giới thuyết vừa nêu ra trên đây về di sản Hán Nôm đã gạt ra ngoài phạm vi của nó một ít những hiện tượng Hán Nôm, mà chủ yếu muốn nói đến ở đây là các văn bản chữ Hán, chữ Nôm do người Việt Nam ngày nay viết ra trong những trường hợp đặc biệt nào đó (và có thể cả những văn bản Hán Nôm do người nước ngoài viết về Việt Nam), mặc dù xét trên quan điểm thuần tuý ngữ văn học thì những tư liệu Hán Nôm này cũng không kèm phần giá trị. Cho nên, khi có sự cần thiết, khái niệm “Di sản Hán Nôm” phải được phân biệt với tất cả các hiện tượng Hán Nôm nói chung. Song, sự phân biệt này không nhằm mục đích gạt bỏ cái gì ra khỏi phạm vi quản lý và nghiên cứu của chúng ta, mà chỉ giúp đỡ cho việc xử lý cụ thể các tư liệu Hán Nôm được thoả đáng hơn trong công tác sưu tầm và nghiên cứu của chúng ta.
2. Ngữ văn học Hán Nôm và ngữ văn học cổ điện Việt Nam
Di sản Hán Nôm, như cách chúng ta hình dung trên đây, là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ các di sản ngữ văn của dân tộc Việt Nam. Tiếp xúc với di sản Hán Nôm, chúng ta đồng thời cũng tiếp xúc với trí tuệ và tấm lòng của bao thế hệ cha ông trên hầu khắp mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nước ta trước đây. Bởi vậy, di sản Hán Nôm và tư liệu Hán Nôm nói chung cùng một lúc có thể làm khách thể nghiên cứu cho nhiều ngành khoa học khác nhau. Qua tư liệu Hán Nôm, các nhà nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực như triết học, sử học, dân tộc học, xã hội học, địa lý học, nông học, sinh học, y học, toán học, v.v… có thể tìm thấy những thông tin cần thiết, nhiều cứ liệu quan trọng và những dối tượng thích hợp cho công việc nghiên cứu của mình. Nhưng trước hết và đồng thời với sự quan tâm của tất cả các nhà chuyên môn thuộc những lĩnh vực khoa học khác nhau như thế (từ khoa học xã hội đến khoa học tự nhiên), các tư liệu Hán Nôm cần phải được kinh qua bàn tay xử lý khoa học của những nhà nghiên cứu lĩnh vực ngữ văn học cổ điển Việt Nam.
Ngữ văn học – theo cách hiểu hiện nay mà chũng tôi lĩnh hội được – là ngành khoa học nghiên cứu mọi hiện tượng ngôn từ trong tất cả các hình thái biểu hiện của chúng, và trong mốn liên quan biện chứng – lịch sử giữa các yếu tố hình thức với nội dung của tác phẩm ngôn từ (4).
Ở đây, chúng tôi không đi sâu thuyết minh mọi khía cạnh của định nghĩa này mà chỉ nhấn mạnh một vài điểm mấu chốt sau đây: Thứ nhất, cần tránh xu hướng chỉ coi trọng tác phẩm văn chương: khoa ngữ văn học quan tâm đến mọi hình thái ngôn từ, kể cả ngôn từ khoa học, công văn, thư từ, sổ sách, tin tức, v.v… Thứ hai, khoa học ngữ văn nói chung không đi sâu vào khai thác mọi giá trị về nội dung chuyên biệt do ngôn ngữ truyền tải (vì đây là nhiệm vụ của các ngành khoa học và chuyên môn khác nhau) mà chủ yếu quan tâm đến mặt ngôn ngữ - văn tự của ngôn từ, bao gồm việc giải thuyết các nội dung ngữ nghĩa trong mối liên hệ biện chứng và lịch sử với các yếu tố hình thức (bao gồm ngôn ngữ, chữ viết và các phương thức định hình) của nó.
Đôi khi người ta hình dung một cách đơn giản rằng: ngữ văn học là cách gọi tắt hay là sự tổng hợp hai ngành ngôn ngữ học và văn học. Thực ra, nội dung mà thuật ngữ ngữ văn học (tiếng Hy Lạp: philologié) bao hàm là rất xê dịch trong lịch sử phát triển khoa học từ cổ đại đến hiện đại. Chỉ từ cuối thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX, người ta mới có xu hướng gắn liền thuật ngữ này không những với ngôn ngữ học (như các nhà ngữ văn học thế kỷ XIX đã hình dung) mà còn cả với khoa văn học. Cần lưu ý rằng, khoa văn học sở dĩ vẫn được xếp vào phạm vị của ngữ văn học không phải là vì nó quan tâm đến tính nghệ thuật, đến nội dung tư tưởng – thẩm mỹ của tác phẩm (về mặt này hẳn là phải xếp văn học vào lĩnh vực các khoa học về nghệ thuật), mà chủ yếu là vì nó cần phải quan tâm trước hết đến mặt ngôn ngữ - văn tự của tác phẩm, đến cái chất liệu bằng tiếng bằng chữ qua bàn tay nhào luyện của tác giả - nhà nghệ sĩ ngôn từ. Chính ở phương diện thứ hai này, văn học mới có mối liên quan chặt chẽ với ngôn ngữ học, là bộ môn khoa học làm nên phần cốt lõi cho ngữ văn học nói chung. Thế nhưng, nếu như văn học lấy các tác phẩm ngôn từ nghệ thuật và tính thẩm mỹ của chúng làm đối tượng khảo sát và miêu tả chính, thì ngôn ngữ học cho đến nay vẫn quan tâm trước hết đến các đơn vị ngôn ngữ và hệ thống của chúng với tư cách là phượng tiện thể hiện tư duy và giao tiếp của con người trong mọi lĩnh vực hoạt động xã hội. Mặc dù ngôn ngữ học (và liên quan đến nó là văn tự học) có vị trí rất quan trọng như vậy nhưng nó vẫn không thay thế được và không đảm nhiệm được hết mọi nghiệm vụ đặt ra cho các chuyên ngành ngữ văn học khác như văn bản học, thư thịch học, v.v… là những chuyên ngành trong đó lấy bản thân các văn bản, các tác phẩm ngôn từ thuộc mọi lĩnh vực làm đối tượng chính.
Từ cách nhìn nhận chung trên đây về khoa học ngữ văn, hãy trở lại với di sản Hán Nôm của chúng ta. Đó thật sự là một khách thể nghiên cứu vô cùng phong phú và đa dạng cho ngữ văn học cổ điển nước ta (5). Xuất phát từ những yêu cầu của cách mạng tư tưởng – văn hoá và cách mạng khoa học - kỹ thuật nước ta, tuân theo những quy luật khách quan trong sự phát triển của khoa học xã hội, từ kho tàng tư liệu Hán Nôm, chúng ta có thể xác lập một loạt các chuyên ngành ngữ văn học chuyên nghiên cứu các hiện tượng Hán Nôm với những đối tượng và nhiệm vụ khác nhau. Không kể những gì vốn làm thành đối tượng thực sự của bộ môn ngôn ngữ học lịch sử tiếng Việt hay bộ môn văn học cổ điển Việt Nam mà mọi người đều đã biết, theo chúng tôi, trong phạm vi của ngữ văn học Hán Nôm còn nổi bật lên ba chuyên ngành sau đây:
1. Văn tự học Hán Nôm: Nghiên cứu về chữ Hán và nhất là chữ Nôm trong văn bản Hán Nôm của các dân tộc Việt Nam. Tìm hiểu lịch sử hình thành và phát triển, tiến hành mô tả và so sánh các hệ thống chữ Nôm đó, xác lập mối liên hệ giữa chúng với các hệ thống cổ tự khối vuông khác trong khu vực. Giải quyết những vấn đề lý luận và kỹ thuật đặt ra trong việc biên soạn các bộ tự điển chữ Hán, chữ Nôm, các bảng tra cứu tư liệu Hán Nôm theo hệ thống các văn tự khối vuông, v.v...
2. Văn bản học Hán Nôm: Nghiên cứu toàn diện về lịch sử và sự tồn tại văn bản các tác phẩm Hán Nôm. Tìm hiểu những vấn đề khái quát cũng như những vấn đề cụ thể về sự hình thành, nhân bản, tàng trữ và lưu truyền các văn bản Hán Nôm. Có thể đi sâu khảo cứu các văn bản của một tác phẩm hay các tác phẩm của một tác giả, hoặc nhiều tác phẩm, nhiều tác giả cùng một thời hoặc ở những thời kỳ lịch sử khác nhau. Giải quyết những vấn đề chung và cụ thể đặt ra trong việc xử lý các văn bản Hán Nôm (giám định, hiệu đính, chú giải, phiên âm, phiên dịch…) nhằm mục đích công bố và sử dụng tác phẩm, v.v…
3. Văn tịch học Hán Nôm (6): Nghiên cứu việc phân loại và hệ thống hoá các văn bản và tác phẩm Hán Nôm. Xác định đặc trưng của từng loại hình văn bản về nội dung cũng như hình thức. Nghiên cứu và xác lập các phương thức hệ thống hoá văn bản. Giải quyết những vấn đề chung và cụ thể đặt ra trong việc xây dựng các bộ sưu tập văn bản và tác phẩm, các bảng tra cứu tư liệu Hán Nôm, v.v…Đây là lĩnh vực kế thừa của thư tịch học và thư mục học truyền thống, đồng thời là cơ sở để tiến hành hiện đại hoá (kể cả tin học hoá) công tác thông tin tư liệu Hán Nôm.
Như vậy, mỗi chuyên ngành trên đây có đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu riêng, và trong mỗi chuyên ngành cũng có thể đi sâu vào từng khía cạnh khác nhau. Điều này quy định xu hướng chuyên môn hoá cho cán bộ nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực Hán Nôm. Song mặt khác, các chuyên ngành ngữ văn học Hán Nôm không phải và không thể tách biệt với nhau hoàn toàn, mà bao giờ cũng liên quan chặt chẽ và hộ trợ cho nhau. Mối liên quan chặt chẽ này giữa các chuyên ngành Hán Nôm không những chỉ thể hiện trong khi tiến hành nghiên cứu cơ bản, mà còn thể hiện rõ rệt trong việc vạch ra và thực hiện những công trình biên soạn mang tính chất ứng dụng như các sách công cụ (chẳng hạn: lập ra các bảng tra cứu về văn bản và tác phẩm, về tác giả; soạn các bộ tự điển chữ Hán, chữ Nôm, các tập điển vựng về nhân danh, địa danh, quan chức, chữ huý trên tư liệu Hán Nôm, v.v..) và cả trong việc xây dựng các bộ sưu tập và tuyển tập tác phẩm, trong các công trình chú giải, phiên âm, phiên dịch và giới thiệu các tác phẩm Hán Nôm. Trong những công trình như thế thường phản ánh một cách tổng hợp các thành qủa nghiên cứu của nhiều chuyên môn trong lĩnh vực Hán Nôm và cả những thành tựu thuộc nhiều lĩnh vực khoa học khác nữa (không chỉ là khoa học xã hội và nhân văn, mà cả khoa học tự nhiên và công nghệ).
Không thể có một ngành khoa học nào mà lại phát sinh và phát triển một cách riêng lẻ và khép kín hoàn toàn đối với các ngành khoa học khác trong nước và trên thế giới. Ngành ngữ văn học Hán Nôm cũng vậy, nó tuyệt nhiên không phải là một ngoại lệ đối với quy luật chung đó của khoa học. Các nhà ngữ văn học Hán Nôm không thể không quan tâm và tiếp thu những thành tựu và phương pháp của các ngành khoa học khác mà trước hết là các ngành sử học (lịch sử Việt Nam và Trung Quốc), ngôn ngữ học (lịch sử tiếng Việt và lịch sử tiếng Hán) cũng như tất cả các tri thức cần thiết về mối quan hệ lịch sử - văn hoá giữa các dân tộc trong khu vực. Cần nhấn mạnh rằng, do ưu thế của văn hiến Trung Hoa ở vùng Á Đông trong lịch sử cổ đại và trung đại, chữ Hán và Hán văn (văn ngôn) đã có mặt trong kho tàng ngữ văn cổ điển của rất nhiều dân tộc ở khu vực này. Điều này đã và đang đặt ra những vấn đề chung cho ngữ văn học cổ điển của nhiều nước trong khu vực (Việt Nam, Triều Tiên – Hàn Quốc, Mông Cổ, Nhật Bản,…), đòi hỏi chúng ta phải quan tâm theo dõi và góp phần nghiên cứu. Ngoài ra, các nhà ngữ văn học Hán Nôm cũng cần phải thường xuyên tìm hiểu và trang bị cho mình những tri thức cần thiết về ngữ văn học đại cương, cũng như về lí luận văn tự học, văn bản học, thư viện học, thông tin học… tuỳ theo xu hướng chuyên môn hoá của mình. Ngược lại, với sự cố gắng không ngừng trong lĩnh vực chuyên môn và tiếp cận với các chuyên ngành khoa học khác, các nhà ngữ văn học Hán Nôm cũng có thể đóng góp đáng kể vào thành tựu và sự tiến triển của các ngành khoa học hữu quan. Ở đây, không có gì ngăn trở một nhà ngữ văn học Hán Nôm có tài năng sẽ đồng thời là một chuyên gia trong các lĩnh vực khoa học khác.
Như đã trình bày ở phần đầu bài viết này, di sản Hán Nôm là phần chủ yếu song chưa phải là toàn bộ di sản ngữ văn của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Cho nên ngữ văn học Hán Nôm mặc dù là nền tảng, song dẫu sao vẫn chưa phải là toàn bộ ngành ngữ văn học cổ điển Việt Nam. Để có một bức tranh toàn cảnh về ngữ văn học cổ điển Việt Nam, chúng ta cần phải có một đội ngũ các nhà ngữ văn học chuyên nghiên cứu các di sản ngữ văn khác của nhiều dân tộc trên đất nước ta, mà trước hết là kho tàng văn bản bằng các văn tự cổ không thuộc hệ chữ vuông Hán và cũng không thuộc hệ chữ La-tinh, như văn tự cổ điển của người Thái, người Chăm, người Khmer ở nước ta, v.v… Cần nhận thức rằng, triển khai nghiên cứu các kho tàng văn bản cổ tự đó chẳng những phù hợp với lô gích nội tại trong sự phát triển khoa học ngữ văn ở nước ta, mà trước hết đó là một đòi hỏi cấp bách trong việc xây dựng và thực hiện chính sách văn hoá - dân tộc của nhà nước ta. Như vậy, bên cạnh di sản Hán Nôm, ngữ văn học cổ điển Việt Nam còn có một khách thể nghiên cứu khác cũng không kém phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, quang cảnh chung về các chuyên ngành khoa học trong lĩnh vực nghiên cứu các văn bản cổ tự này trên đại thể vẫn còn có thể tiếp tục hình dung tương tự như đã trình bày trên đây về di sản Hán Nôm. Nghĩa là ở đây, chúng ta cũng thấy nổi bật lên các chuyên ngành như văn tự học, văn bản học, văn tịch học, v.v… Điều khác biệt cơ bản với ngữ văn học Hán Nôm là khi tiếp xúc với kho tàng văn bản bằng cổ tự Thái, Chăm, Khmer, v.v… chúng ta đồng thời tiếp xúc với những loại hình ngôn ngữ - văn tự khác hẳn, trong mối quan hệ văn hoá – lịch sử của các dân tộc trên đất nước ta với các nước láng giềng trong khu vực từ phía tây Trường Sơn đến Ấn Độ, là nơi đã hình thành nên một trong những nền văn hiến rực rỡ khác (cùng với văn hiến Ai Cập, Hy Lạp và Trung Hoa) trong thế giới cổ đại và trung đại – đó là nền văn hiến Ấn Độ, văn hiến chữ Phạn.
Chú thích:
Bài viết này của GS.TSKH Nguyễn Quang Hồng được in trong Tạp chí Hán Nôm số 2, Hà Nội, 1987, và được in lại trong sách Tạp chí Hán Nôm – 100 bài tuyển chọn của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội, 2000) và trong một vài tuyển tập khác. Chúng tôi đã xin phép tác giả được đăng lại trên website Digitizing Việt Nam.
1. Xem Ju. V. Rozhdestvensky, Vvedenie v obshuju filologiju (Dẫn luận ngữ văn học đại cương), Nxb “Vyshaja shkola”, M., 1979 (tiếng Nga). Cũng không loại trừ khả năng có thể có những dân tộc vùng này đã tự mình tạo ra được một lối chữ riêng tại chỗ, mà không chịu ảnh hưởng của một nền văn hoá nào rõ rệt, mặc dù trên thực tế rất ít gặp những trường hợp như vậy. Xe, I.J. Gelb, A study of writing (Nghiên cứu về chữ viết), Nxb “Raduga”, M., 1982, tr. 258, chú thích số 30 (tiếng Nga).
2. Một thí dụ thú vị cho những trường hợp này là bài Hán văn Hồng Nghệ An phú của nhà cách mạng Lê Hồng Phong sáng tác khi bị tù tại Côn Đảo. Không có giấy bút, Lê Hồng Phong sáng tác theo kiểu nghĩ được câu nào đọc câu ấy cho một đồng chí khác ngồi cũng tù nhớ nhập tâm theo âm Hán Việt. Hơn 40 năm sau, đồng chí này ra miền Bắc đọc lại toàn văn cho cụ Thạch Can ghi lại bằng chữ Quốc ngữ và đăng trên Tập san Nghiên cứu Hán Nôm, số 1, 1985.
3. Tinh thần chung toát ra từ toàn bộ những quan điểm về ngữ văn học của Giáo sư Ju. V. Rozhdestvensky (sách đã dẫn) là cơ sở để chúng tôi phát biểu định nghĩa trên đây về ngữ văn và ngữ văn học.
4. Về sự xê dịch trong cách hiểu thuật ngữ ngữ văn học (philology) ở phương Tây có thể xem, chẳng hạn: Slovar terminov literaturovedenijia (Từ điển nghiên cứu thuật ngữ văn học) do L.I. Timofiev và S.V. Turaev chủ biên, Nxb “Prosveshenije”, M., 1974, tr. 434-436 (tiếng Nga).
5. Ở đây, hai chữ “cổ điển” không có nghĩa đối lập với những gì là tân tiến, là “hiện đại”, mà muốn nói tới đối tượng nghiên cứu là những văn bản và tác phẩm ngôn từ đã được hình thành trong quá khứ và truyền lại đến nay.
6. Thuật ngữ thư tịch học có lẽ không thích hợp lắm, vì tên gọi này (vốn gắn liền với khái niệm về sách) không bao quát được hết các loại hình văn bản khác nhau và các nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra nhưng những gì đang được hình dung ở đây.