














Một nhu cầu cấp thiết đang đặt ra cho những người làm công tác khoa học trong lĩnh vực Hán Nôm là phải đổi mới tư duy lý luận, nâng cao nhận thức lý thuyết về đối tượng quản lý và nghiên cứu của mình. Có như vậy mới có thể xây dựng được cơ sở khoa học cho việc định hướng, xác lập và tổ chức các hoạt động khoa học trên những quy mô rộng lớn, cũng như trên từng đề tài và công việc cụ thể.
Bước đầu đề cập vấn đề này, chúng tôi tạm chưa đi sâu vào mọi khía cạnh, mọi chi tiết của nó, mà chủ yếu xuất phát từ phương pháp luận khoa học ngữ văn, kết hợp với tình hình thực tế có thể quan sát được ở nước ta, cố gắng xác lập những cách nhìn khái quát và cần thiết đối với di sản Hán Nôm, góp phần hình dung và định hướng các hoạt động khoa học trên tư liệu Hán Nôm, một bộ phận quan trọng trong toàn bộ các di sản ngữ văn của dân tộc.
1. Di sản Hán Nôm trong toàn bộ di sản ngữ văn của dân tộc Việt Nam
Di sản văn hoá nói chung của một dân tộc, một đất nước, có thể bao gồm nhiều thành phần, nhiều kiểu loại khác nhau, từ văn hoá vật chất đến văn hoá tinh thần, văn hoá vật thể đến văn hoá phi vật thể. Trong kho tàng những di sản văn hoá tinh thần phi vật thể và có thể cả vật thể của một dân tộc thì chiếm một vị trí quan trọng là những di sản mang tính chất ngữ văn.
Ngữ văn, theo cách hiểu của khoa học ngày nay, là toàn bộ những phát ngôn do con người tạo ra bằng phương tiện ngôn ngữ. Mỗi phát ngôn mà được hoàn chỉnh và định hình bằng cách nào đó được gọi là một tác phẩm ngôn từ (gọi tắt là ngôn từ). Tuỳ theo cách thức định hình vật chất, ta có thể phân chia các ngôn từ thành nhiều loại hình khác nhau: ngôn từ nói miệng, ngôn từ viết tay, ngôn từ in ấn, v.v… (1)
Khi một dân tộc nào đó chưa đặt ra được chữ viết cho ngôn ngữ của mình, mà cũng chưa biết mượn dùng ngôn ngữ văn tự của một dân tộc nào khác thì mọi tác phẩm ngôn từ của họ chỉ là những lời nói miệng. Và trong tình trạng đó, di sản ngữ văn của họ chỉ có thể là những ngôn từ truyền miệng mà thôi (như: thành ngữ, tục ngữ, ca dao, vè, truyện kể, v.v…). Nhưng một khi họ đã biết sử dụng chữ viết (bất kể là tạo ra hay vay mượn của dân tộc khác) để viết nên những ngôn từ thành văn – tức là những văn bản (hiểu theo nghĩa gốc của từ này) thì nền văn hoá tinh thần của dân tộc đó bắt đầu bước vào một giai đoạn mới, giai đoạn có văn hiến (cũng hiểu theo nghĩa gốc của từ này).
Cũng cần lưu ý rằng, các tác phẩm ngôn từ thuộc di sản ngữ văn của một dân tộc là truyền miệng hay thành văn, có thể là được tạo ra và tồn tại một cách tự thân (như: tục ngữ, câu đố, ca dao, sách vở, công văn, thư từ, v.v…) nhưng cũng có thể là kèm theo cùng các loại hình di sản văn hoá khác (chẳng hạn: lời ca trong dân gian, các bài văn, bài thơ, câu đối, khắc ở bia ở chuông, tháp, đền chùa, lâu đài, v.v…)
Từ sự hình dung trên đây về di sản ngữ văn nói chung, nhìn vào thực tiễn hoạt động ngôn ngữ - văn tự ở Việt Nam, ta dễ dàng nhận thấy rằng, trong toàn bộ di sản ngữ văn nước ta, có mặt đầy đủ tất cả các loại hình ngôn tử kể trên, bao gồm những kho tàng ngôn từ truyền miệng dân gian khá phong phú và đa dạng, cùng với kho tàng các văn bản chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ và nhiều thứ chữ khác của các dân tộc, được viết tay và nhân bản bằng phương pháp thủ công (chủ yếu là khắc, in mộc bản), do nhiều thế hệ người các dân tộc Việt Nam tạo ra và lưu truyền đến ngày nay.
Chỉ xét về mặt loại hình ngôn ngữ - chữ viết thì các di sản ngôn từ thành văn của nước ta có thể phân biệt với nhau theo hai bước như sau:
- Ở bước thứ nhất ta có: (A) – các văn bản được viết vằng văn tự thuộc hệ chữ cái La-tinh, phân biệt với (B) – các văn bản không thuộc hệ chữ cái La-tinh.
- Ở bước thứ hai ta có: (B1) – các văn bản được tạo ra từ các văn tự theo hệ chữ vuông (chữ Hán, chữ Nôm của người Việt và các dân tộc anh em như Tày, Mèo, Dao) phân biệt với (B2) – các văn bản không thuộc hệ chữ La-tinh nhưng cũng không thuộc hệ chữ vuông Hán (mà chủ yếu là thuộc hệ chữ Phạn như văn tự cổ của các dân tộc Thái, Chăm, Khmer, v.v…).
Dĩ nhiên là không loại trừ khả năng có những tác phẩm trong đó người ta đã sử dụng đồng thời mấy thứ ngôn ngữ - văn tự khác nhau. Chẳng hạn: trong kho sách của Viên Nghiên cứu Hán Nôm ở Hà Nội hiện nay, có không ít tác phẩm thuộc loại “giải âm”, “diễn nghĩa” từ Hán sang Nôm và cả chữ Quốc ngữ, chữ Pháp, v.v… Đối với các văn bản loại này, phải tuỳ theo mức độ và tính chất của sự phối hợp hay xen kẽ thứ chữ này với thứ chữ khác mà tiến hành phân biệt, xử lý cụ thể.
Sự phân biệt các di sản ngôn từ thành văn của nước ta theo tiêu chí loại hình ngôn ngữ - văn tự như trên đây tuyệt nhiên không phải chỉ là một thao tác thuần tuý hình thức. Thực ra trong đó có phản ánh những nhân tố lịch sử - văn hoá rất quan trọng. Ở bước thứ nhất, khi phân biệt các văn bản thuộc hệ chữ cái La-tinh (A) với những văn bản còn lại không thuộc hệ chữ này (B), chúng ta cũng đồng thời phân biệt trên đại thể một đằng là các văn bản xuất hiện từ thời cận đại về sau trong quan hệ tiếp xúc với văn minh phương Tây (châu Âu); và đằng khác là những văn bản ra đời trong quan hệ tiếp xúc với văn minh phương Đông (châu Á) vốn gắn liền với lịch sử lâu dài của dân tộc Việt Nam từ thời cổ đại, trung đại cho đến những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XX. Ở bước thứ hai, khi phân biệt các văn bản thuộc hệ chữ vuông Hán (B1) với những văn bản phi La-tinh khác mà không thuộc hệ chữ vuông (B2), chúng ta cũng đồng thời tìm thấy mối liên hệ giữa sự phân biệt theo hệ chữ viết như thế với hai nền văn hiến khác nhau mà các dân tộc Việt Nam đã tiếp thu: văn hiến Trung Hoa (đối với B1) và văn hiến Ấn Độ (đối với B2) (2) .
Đến đây thì sự hình dung lý thuyết xét từ góc độ ngữ văn học đối với Di sản Hán Nôm hầu như đã được rõ nét. Đó là những tác phẩm ngôn từ thành văn do người Việt Nam tạo ra hoặc tham gia sáng tạo, chủ yếu dựa vào ngôn ngữ - văn tự Hán cổ và ngôn ngữ - văn tự của các dân tộc Việt Nam thuộc hệ chữ vuông (các loại chữ Nôm) được định hình và nhân bản bằng các phương tiện thủ công (viết tay, chạm khắc, khắc in mộc bản, v.v…), làm thành một bộ phận quan trọng trong toàn bộ di sản thành văn của các dân tộc Việt Nam.
Đối với với kho tư liệu thực tế các văn bản Hán Nôm mà chúng ta hiện có thì sự hình dung lý thuyết nêu ra trên đây là phù hợp và bao quát được hầu hết các hiện tượng vẫn được coi là di sản Hán Nôm. Dĩ nhiên là có thể gặp một số trường hợp ngoại lệ mà ở đó sự định hình và lưu truyền các văn bản có mang những “số phận” đặc biệt (3).
Di sản Hán Nôm trước hết vẫn là một phạm trù văn hoá – lịch sử. Cho nên không phải bất kỳ văn bản hay hiện tượng chữ Hán, chữ Nôm nào cũng đều được coi là di sản Hán Nôm. Giới thuyết vừa nêu ra trên đây về di sản Hán Nôm đã gạt ra ngoài phạm vi của nó một ít những hiện tượng Hán Nôm, mà chủ yếu muốn nói đến ở đây là các văn bản chữ Hán, chữ Nôm do người Việt Nam ngày nay viết ra trong những trường hợp đặc biệt nào đó (và có thể cả những văn bản Hán Nôm do người nước ngoài viết về Việt Nam), mặc dù xét trên quan điểm thuần tuý ngữ văn học thì những tư liệu Hán Nôm này cũng không kèm phần giá trị. Cho nên, khi có sự cần thiết, khái niệm “Di sản Hán Nôm” phải được phân biệt với tất cả các hiện tượng Hán Nôm nói chung. Song, sự phân biệt này không nhằm mục đích gạt bỏ cái gì ra khỏi phạm vi quản lý và nghiên cứu của chúng ta, mà chỉ giúp đỡ cho việc xử lý cụ thể các tư liệu Hán Nôm được thoả đáng hơn trong công tác sưu tầm và nghiên cứu của chúng ta.
2. Ngữ văn học Hán Nôm và ngữ văn học cổ điện Việt Nam
Di sản Hán Nôm, như cách chúng ta hình dung trên đây, là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ các di sản ngữ văn của dân tộc Việt Nam. Tiếp xúc với di sản Hán Nôm, chúng ta đồng thời cũng tiếp xúc với trí tuệ và tấm lòng của bao thế hệ cha ông trên hầu khắp mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nước ta trước đây. Bởi vậy, di sản Hán Nôm và tư liệu Hán Nôm nói chung cùng một lúc có thể làm khách thể nghiên cứu cho nhiều ngành khoa học khác nhau. Qua tư liệu Hán Nôm, các nhà nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực như triết học, sử học, dân tộc học, xã hội học, địa lý học, nông học, sinh học, y học, toán học, v.v… có thể tìm thấy những thông tin cần thiết, nhiều cứ liệu quan trọng và những dối tượng thích hợp cho công việc nghiên cứu của mình. Nhưng trước hết và đồng thời với sự quan tâm của tất cả các nhà chuyên môn thuộc những lĩnh vực khoa học khác nhau như thế (từ khoa học xã hội đến khoa học tự nhiên), các tư liệu Hán Nôm cần phải được kinh qua bàn tay xử lý khoa học của những nhà nghiên cứu lĩnh vực ngữ văn học cổ điển Việt Nam.
Ngữ văn học – theo cách hiểu hiện nay mà chũng tôi lĩnh hội được – là ngành khoa học nghiên cứu mọi hiện tượng ngôn từ trong tất cả các hình thái biểu hiện của chúng, và trong mốn liên quan biện chứng – lịch sử giữa các yếu tố hình thức với nội dung của tác phẩm ngôn từ (4).
Ở đây, chúng tôi không đi sâu thuyết minh mọi khía cạnh của định nghĩa này mà chỉ nhấn mạnh một vài điểm mấu chốt sau đây: Thứ nhất, cần tránh xu hướng chỉ coi trọng tác phẩm văn chương: khoa ngữ văn học quan tâm đến mọi hình thái ngôn từ, kể cả ngôn từ khoa học, công văn, thư từ, sổ sách, tin tức, v.v… Thứ hai, khoa học ngữ văn nói chung không đi sâu vào khai thác mọi giá trị về nội dung chuyên biệt do ngôn ngữ truyền tải (vì đây là nhiệm vụ của các ngành khoa học và chuyên môn khác nhau) mà chủ yếu quan tâm đến mặt ngôn ngữ - văn tự của ngôn từ, bao gồm việc giải thuyết các nội dung ngữ nghĩa trong mối liên hệ biện chứng và lịch sử với các yếu tố hình thức (bao gồm ngôn ngữ, chữ viết và các phương thức định hình) của nó.
Đôi khi người ta hình dung một cách đơn giản rằng: ngữ văn học là cách gọi tắt hay là sự tổng hợp hai ngành ngôn ngữ học và văn học. Thực ra, nội dung mà thuật ngữ ngữ văn học (tiếng Hy Lạp: philologié) bao hàm là rất xê dịch trong lịch sử phát triển khoa học từ cổ đại đến hiện đại. Chỉ từ cuối thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX, người ta mới có xu hướng gắn liền thuật ngữ này không những với ngôn ngữ học (như các nhà ngữ văn học thế kỷ XIX đã hình dung) mà còn cả với khoa văn học. Cần lưu ý rằng, khoa văn học sở dĩ vẫn được xếp vào phạm vị của ngữ văn học không phải là vì nó quan tâm đến tính nghệ thuật, đến nội dung tư tưởng – thẩm mỹ của tác phẩm (về mặt này hẳn là phải xếp văn học vào lĩnh vực các khoa học về nghệ thuật), mà chủ yếu là vì nó cần phải quan tâm trước hết đến mặt ngôn ngữ - văn tự của tác phẩm, đến cái chất liệu bằng tiếng bằng chữ qua bàn tay nhào luyện của tác giả - nhà nghệ sĩ ngôn từ. Chính ở phương diện thứ hai này, văn học mới có mối liên quan chặt chẽ với ngôn ngữ học, là bộ môn khoa học làm nên phần cốt lõi cho ngữ văn học nói chung. Thế nhưng, nếu như văn học lấy các tác phẩm ngôn từ nghệ thuật và tính thẩm mỹ của chúng làm đối tượng khảo sát và miêu tả chính, thì ngôn ngữ học cho đến nay vẫn quan tâm trước hết đến các đơn vị ngôn ngữ và hệ thống của chúng với tư cách là phượng tiện thể hiện tư duy và giao tiếp của con người trong mọi lĩnh vực hoạt động xã hội. Mặc dù ngôn ngữ học (và liên quan đến nó là văn tự học) có vị trí rất quan trọng như vậy nhưng nó vẫn không thay thế được và không đảm nhiệm được hết mọi nghiệm vụ đặt ra cho các chuyên ngành ngữ văn học khác như văn bản học, thư thịch học, v.v… là những chuyên ngành trong đó lấy bản thân các văn bản, các tác phẩm ngôn từ thuộc mọi lĩnh vực làm đối tượng chính.
Từ cách nhìn nhận chung trên đây về khoa học ngữ văn, hãy trở lại với di sản Hán Nôm của chúng ta. Đó thật sự là một khách thể nghiên cứu vô cùng phong phú và đa dạng cho ngữ văn học cổ điển nước ta (5). Xuất phát từ những yêu cầu của cách mạng tư tưởng – văn hoá và cách mạng khoa học - kỹ thuật nước ta, tuân theo những quy luật khách quan trong sự phát triển của khoa học xã hội, từ kho tàng tư liệu Hán Nôm, chúng ta có thể xác lập một loạt các chuyên ngành ngữ văn học chuyên nghiên cứu các hiện tượng Hán Nôm với những đối tượng và nhiệm vụ khác nhau. Không kể những gì vốn làm thành đối tượng thực sự của bộ môn ngôn ngữ học lịch sử tiếng Việt hay bộ môn văn học cổ điển Việt Nam mà mọi người đều đã biết, theo chúng tôi, trong phạm vi của ngữ văn học Hán Nôm còn nổi bật lên ba chuyên ngành sau đây:
1. Văn tự học Hán Nôm: Nghiên cứu về chữ Hán và nhất là chữ Nôm trong văn bản Hán Nôm của các dân tộc Việt Nam. Tìm hiểu lịch sử hình thành và phát triển, tiến hành mô tả và so sánh các hệ thống chữ Nôm đó, xác lập mối liên hệ giữa chúng với các hệ thống cổ tự khối vuông khác trong khu vực. Giải quyết những vấn đề lý luận và kỹ thuật đặt ra trong việc biên soạn các bộ tự điển chữ Hán, chữ Nôm, các bảng tra cứu tư liệu Hán Nôm theo hệ thống các văn tự khối vuông, v.v...
2. Văn bản học Hán Nôm: Nghiên cứu toàn diện về lịch sử và sự tồn tại văn bản các tác phẩm Hán Nôm. Tìm hiểu những vấn đề khái quát cũng như những vấn đề cụ thể về sự hình thành, nhân bản, tàng trữ và lưu truyền các văn bản Hán Nôm. Có thể đi sâu khảo cứu các văn bản của một tác phẩm hay các tác phẩm của một tác giả, hoặc nhiều tác phẩm, nhiều tác giả cùng một thời hoặc ở những thời kỳ lịch sử khác nhau. Giải quyết những vấn đề chung và cụ thể đặt ra trong việc xử lý các văn bản Hán Nôm (giám định, hiệu đính, chú giải, phiên âm, phiên dịch…) nhằm mục đích công bố và sử dụng tác phẩm, v.v…
3. Văn tịch học Hán Nôm (6): Nghiên cứu việc phân loại và hệ thống hoá các văn bản và tác phẩm Hán Nôm. Xác định đặc trưng của từng loại hình văn bản về nội dung cũng như hình thức. Nghiên cứu và xác lập các phương thức hệ thống hoá văn bản. Giải quyết những vấn đề chung và cụ thể đặt ra trong việc xây dựng các bộ sưu tập văn bản và tác phẩm, các bảng tra cứu tư liệu Hán Nôm, v.v…Đây là lĩnh vực kế thừa của thư tịch học và thư mục học truyền thống, đồng thời là cơ sở để tiến hành hiện đại hoá (kể cả tin học hoá) công tác thông tin tư liệu Hán Nôm.
Như vậy, mỗi chuyên ngành trên đây có đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu riêng, và trong mỗi chuyên ngành cũng có thể đi sâu vào từng khía cạnh khác nhau. Điều này quy định xu hướng chuyên môn hoá cho cán bộ nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực Hán Nôm. Song mặt khác, các chuyên ngành ngữ văn học Hán Nôm không phải và không thể tách biệt với nhau hoàn toàn, mà bao giờ cũng liên quan chặt chẽ và hộ trợ cho nhau. Mối liên quan chặt chẽ này giữa các chuyên ngành Hán Nôm không những chỉ thể hiện trong khi tiến hành nghiên cứu cơ bản, mà còn thể hiện rõ rệt trong việc vạch ra và thực hiện những công trình biên soạn mang tính chất ứng dụng như các sách công cụ (chẳng hạn: lập ra các bảng tra cứu về văn bản và tác phẩm, về tác giả; soạn các bộ tự điển chữ Hán, chữ Nôm, các tập điển vựng về nhân danh, địa danh, quan chức, chữ huý trên tư liệu Hán Nôm, v.v..) và cả trong việc xây dựng các bộ sưu tập và tuyển tập tác phẩm, trong các công trình chú giải, phiên âm, phiên dịch và giới thiệu các tác phẩm Hán Nôm. Trong những công trình như thế thường phản ánh một cách tổng hợp các thành qủa nghiên cứu của nhiều chuyên môn trong lĩnh vực Hán Nôm và cả những thành tựu thuộc nhiều lĩnh vực khoa học khác nữa (không chỉ là khoa học xã hội và nhân văn, mà cả khoa học tự nhiên và công nghệ).
Không thể có một ngành khoa học nào mà lại phát sinh và phát triển một cách riêng lẻ và khép kín hoàn toàn đối với các ngành khoa học khác trong nước và trên thế giới. Ngành ngữ văn học Hán Nôm cũng vậy, nó tuyệt nhiên không phải là một ngoại lệ đối với quy luật chung đó của khoa học. Các nhà ngữ văn học Hán Nôm không thể không quan tâm và tiếp thu những thành tựu và phương pháp của các ngành khoa học khác mà trước hết là các ngành sử học (lịch sử Việt Nam và Trung Quốc), ngôn ngữ học (lịch sử tiếng Việt và lịch sử tiếng Hán) cũng như tất cả các tri thức cần thiết về mối quan hệ lịch sử - văn hoá giữa các dân tộc trong khu vực. Cần nhấn mạnh rằng, do ưu thế của văn hiến Trung Hoa ở vùng Á Đông trong lịch sử cổ đại và trung đại, chữ Hán và Hán văn (văn ngôn) đã có mặt trong kho tàng ngữ văn cổ điển của rất nhiều dân tộc ở khu vực này. Điều này đã và đang đặt ra những vấn đề chung cho ngữ văn học cổ điển của nhiều nước trong khu vực (Việt Nam, Triều Tiên – Hàn Quốc, Mông Cổ, Nhật Bản,…), đòi hỏi chúng ta phải quan tâm theo dõi và góp phần nghiên cứu. Ngoài ra, các nhà ngữ văn học Hán Nôm cũng cần phải thường xuyên tìm hiểu và trang bị cho mình những tri thức cần thiết về ngữ văn học đại cương, cũng như về lí luận văn tự học, văn bản học, thư viện học, thông tin học… tuỳ theo xu hướng chuyên môn hoá của mình. Ngược lại, với sự cố gắng không ngừng trong lĩnh vực chuyên môn và tiếp cận với các chuyên ngành khoa học khác, các nhà ngữ văn học Hán Nôm cũng có thể đóng góp đáng kể vào thành tựu và sự tiến triển của các ngành khoa học hữu quan. Ở đây, không có gì ngăn trở một nhà ngữ văn học Hán Nôm có tài năng sẽ đồng thời là một chuyên gia trong các lĩnh vực khoa học khác.
Như đã trình bày ở phần đầu bài viết này, di sản Hán Nôm là phần chủ yếu song chưa phải là toàn bộ di sản ngữ văn của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Cho nên ngữ văn học Hán Nôm mặc dù là nền tảng, song dẫu sao vẫn chưa phải là toàn bộ ngành ngữ văn học cổ điển Việt Nam. Để có một bức tranh toàn cảnh về ngữ văn học cổ điển Việt Nam, chúng ta cần phải có một đội ngũ các nhà ngữ văn học chuyên nghiên cứu các di sản ngữ văn khác của nhiều dân tộc trên đất nước ta, mà trước hết là kho tàng văn bản bằng các văn tự cổ không thuộc hệ chữ vuông Hán và cũng không thuộc hệ chữ La-tinh, như văn tự cổ điển của người Thái, người Chăm, người Khmer ở nước ta, v.v… Cần nhận thức rằng, triển khai nghiên cứu các kho tàng văn bản cổ tự đó chẳng những phù hợp với lô gích nội tại trong sự phát triển khoa học ngữ văn ở nước ta, mà trước hết đó là một đòi hỏi cấp bách trong việc xây dựng và thực hiện chính sách văn hoá - dân tộc của nhà nước ta. Như vậy, bên cạnh di sản Hán Nôm, ngữ văn học cổ điển Việt Nam còn có một khách thể nghiên cứu khác cũng không kém phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, quang cảnh chung về các chuyên ngành khoa học trong lĩnh vực nghiên cứu các văn bản cổ tự này trên đại thể vẫn còn có thể tiếp tục hình dung tương tự như đã trình bày trên đây về di sản Hán Nôm. Nghĩa là ở đây, chúng ta cũng thấy nổi bật lên các chuyên ngành như văn tự học, văn bản học, văn tịch học, v.v… Điều khác biệt cơ bản với ngữ văn học Hán Nôm là khi tiếp xúc với kho tàng văn bản bằng cổ tự Thái, Chăm, Khmer, v.v… chúng ta đồng thời tiếp xúc với những loại hình ngôn ngữ - văn tự khác hẳn, trong mối quan hệ văn hoá – lịch sử của các dân tộc trên đất nước ta với các nước láng giềng trong khu vực từ phía tây Trường Sơn đến Ấn Độ, là nơi đã hình thành nên một trong những nền văn hiến rực rỡ khác (cùng với văn hiến Ai Cập, Hy Lạp và Trung Hoa) trong thế giới cổ đại và trung đại – đó là nền văn hiến Ấn Độ, văn hiến chữ Phạn.
Chú thích:
Bài viết này của GS.TSKH Nguyễn Quang Hồng được in trong Tạp chí Hán Nôm số 2, Hà Nội, 1987, và được in lại trong sách Tạp chí Hán Nôm – 100 bài tuyển chọn của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội, 2000) và trong một vài tuyển tập khác. Chúng tôi đã xin phép tác giả được đăng lại trên website Digitizing Việt Nam.
1. Xem Ju. V. Rozhdestvensky, Vvedenie v obshuju filologiju (Dẫn luận ngữ văn học đại cương), Nxb “Vyshaja shkola”, M., 1979 (tiếng Nga). Cũng không loại trừ khả năng có thể có những dân tộc vùng này đã tự mình tạo ra được một lối chữ riêng tại chỗ, mà không chịu ảnh hưởng của một nền văn hoá nào rõ rệt, mặc dù trên thực tế rất ít gặp những trường hợp như vậy. Xe, I.J. Gelb, A study of writing (Nghiên cứu về chữ viết), Nxb “Raduga”, M., 1982, tr. 258, chú thích số 30 (tiếng Nga).
2. Một thí dụ thú vị cho những trường hợp này là bài Hán văn Hồng Nghệ An phú của nhà cách mạng Lê Hồng Phong sáng tác khi bị tù tại Côn Đảo. Không có giấy bút, Lê Hồng Phong sáng tác theo kiểu nghĩ được câu nào đọc câu ấy cho một đồng chí khác ngồi cũng tù nhớ nhập tâm theo âm Hán Việt. Hơn 40 năm sau, đồng chí này ra miền Bắc đọc lại toàn văn cho cụ Thạch Can ghi lại bằng chữ Quốc ngữ và đăng trên Tập san Nghiên cứu Hán Nôm, số 1, 1985.
3. Tinh thần chung toát ra từ toàn bộ những quan điểm về ngữ văn học của Giáo sư Ju. V. Rozhdestvensky (sách đã dẫn) là cơ sở để chúng tôi phát biểu định nghĩa trên đây về ngữ văn và ngữ văn học.
4. Về sự xê dịch trong cách hiểu thuật ngữ ngữ văn học (philology) ở phương Tây có thể xem, chẳng hạn: Slovar terminov literaturovedenijia (Từ điển nghiên cứu thuật ngữ văn học) do L.I. Timofiev và S.V. Turaev chủ biên, Nxb “Prosveshenije”, M., 1974, tr. 434-436 (tiếng Nga).
5. Ở đây, hai chữ “cổ điển” không có nghĩa đối lập với những gì là tân tiến, là “hiện đại”, mà muốn nói tới đối tượng nghiên cứu là những văn bản và tác phẩm ngôn từ đã được hình thành trong quá khứ và truyền lại đến nay.
6. Thuật ngữ thư tịch học có lẽ không thích hợp lắm, vì tên gọi này (vốn gắn liền với khái niệm về sách) không bao quát được hết các loại hình văn bản khác nhau và các nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra nhưng những gì đang được hình dung ở đây.

1. Lời dẫn
Trong số 56 dân tộc sống trên lãnh thổ Trung Quốc, thì Choang (壯 Zhuang) là dân tộc có số dân đông thứ hai (sau dân tộc Hán), có đến 15555820 người (theo số liệu điều tra năm 1990). Người Choang cư trú chủ yếu ở tỉnh Quảng Tây, một số ít ở tỉnh Quý Châu và Vân Nam. Đó cũng là địa bàn cư trú lâu đời của dân tộc này, mà về nguồn gốc là một chi nhánh trong cộng đồng các dân tộc Bách Việt thời cổ đại.
Nếu như trong cộng đồng Bách Việt có hai chi nhánh lớn nằm ở vùng cực Nam của khối này (bao gồm từ Quảng Tây đến Vân Nam ở Trung Quốc và Bắc Bộ, Trung Bộ của Việt Nam) thì đó là Tây Âu và Lạc Việt. Trên đại thể, người Choang cũng như người Tày, người Nùng ở Việt Nam, chủ yếu liên quan với nhóm Tây Âu, thuộc ngữ hệ Tai-Kadai; còn người Mường, người Việt (Kinh), vốn là thuộc ngữ hệ Nam Á (nhánh Môn-Khmer), sau một quá trình hòa nhập với các nhóm người Tày-Nùng và có thể cả Nam Đảo mà hình thành nên nhóm Lạc Việt. Chính từ mối quan hệ gần gũi về nguồn gốc cũng như về địa bàn cư trú như vậy, giữa hai ngôn ngữ Việt và Choang hẳn còn giữ lại ít nhiều những đơn vị ngôn ngữ tương đồng, dù xét về quan hệ cội nguồn hay quan hệ tiếp xúc ngôn ngữ.
Trên cơ sở nghiên cứu so sánh và đối chiếu một số tư liệu viết bằng chữ Nôm Việt và chữ vuông Choang, là những thứ văn tự cổ truyền của hai dân tộc này, tác giả bài này nhận thấy giữa hai ngôn ngữ đã và đang có không ít những ngữ tố gần âm gần nghĩa, có thể là cùng gốc Tai-Kadai, cũng có thể là do sự tiếp xúc vay mượn lẫn nhau. Mục đích của bài này chỉ là trình bày một danh sách những ngữ tố như vậy, nhằm cung cấp tư liệu tham khảo cho những cuộc khảo cứu có liên quan.
Trong danh sách này, các ngữ tố tương ứng giữa Việt (V) và Choang (Zhuang: Z) sẽ được trình bày theo mấy thông tin như sau:
(1) Chữ viết hiện hành (theo mẫu tự La-tinh). Điều cần lưu ý ở đây là chữ Choang dùng các chữ cái phụ âm ở cuối âm tiết để ghi thanh điệu, chứ không dùng dấu thanh như chữ Quốc ngữ của tiếng Việt. Vì lý do kỹ thuật, ở đây không tiện dùng hình thức văn tự cổ truyền (chữ Nôm Việt và chữ vuông Choang) để ghi các ngữ tố đang xét như trong các tư liệu gốc và các tự điển đã ghi.
(2) Phiên âm theo ký hiệu ghi âm quốc tế IPA. Đối với các ngữ tố Choang, công việc này hoàn toàn dựa vào cuốn Cổ Tráng tự tự điển. Đối với các ngữ tố Việt, cố gắng theo cách ghi tương đối phổ biến. Tuy nhiên, để bớt phần phức tạp, xin tạm lược bỏ các dấu phụ trỏ âm lướt và trỏ nguyên âm đôi, “âm đệm” (medial) [-ṷ-] sẽ được ghi bằng ký tự [w]. Khi có sự đối lập “ngắn” và “dài” ở nguyên âm tạo đỉnh âm tiết, sẽ dùng dấu “ngắn” [ˇ] cho tiếng Việt và dấu “dài” [:] cho tiếng Choang. Dùng chữ số để ghi thanh điệu (trong đó số 7 và 8 là những số ghi thanh “nhập”).
(3) Nghĩa cơ bản trùng hợp giữa hai ngôn ngữ (bỏ qua những nét nghĩa chênh nhau). Chữ idem dùng để trỏ cùng nghĩa như ngữ tố Việt. Chủ yếu sử dụng các tự điển để chua nghĩa cho các ngữ tố đang xét.
(4) Dẫn ra các câu thí dụ (tận dụng các tự điển đang có) và nếu cần cho thêm thuyết minh bổ sung. Một số trường hợp có thể tạm khuyết thí dụ.
(5) Ký hiệu <> dùng để trỏ quan hệ đối chiếu và ngăn cách dẫn liệu từ hai ngôn ngữ đang xét.
Những ngữ tố mà chúng tôi nhận thấy rõ là cả hai ngôn ngữ Việt và Choang đều tiếp nhận từ Hán ngữ, dù đã được đồng hóa cao độ, thì đều không đưa vào danh sách những ngữ tố cùng gốc Việt – Choang được xem xét ở đây.
2. Ngữ liệu đối chiếu
(V) au [ău1]. Màu sắc (thương là đỏ) tươi thắm. Đôi má đỏ au <> (Z) aeuj [au3] . Màu tím. Va aeuj ‘hoa tím’.
2. (V) ba [ba1]. Trong ba ba: loài rùa ở nước ngọt, mai trơn. <> (Z) ba [pa1]. Idem.
3.(V) ban [ban1]. Một khoảng thời gian trong ngày. Ban trưa. Ban chiều. <> (Z) ban [pa:n1]. Idem. Ban ringz (ban trưa).
4. (V) bậc [bɤ̆k8 ].Tầng, nấc, ngôi thứ. Bậc thang. Bậc thềm. <> (Z) mbaek [bak7] : Idem. Aen lae neix miz caet mbaek ‘Vậy là có bảy bậc’.
5. (V) bầu [bɤ̆u2] / bù [bu2]. Trái bầu, vỏ trái bầu, vật hình trái bầu.<>(Z) mbaeuj [bau3] / byuz [pju-2]. Idem. mbaeuj laeuj ‘bầu rượu’.
6. (V) bầy [bɤ̆i2]. Đám đông động vật hoặc người. Lũ, nhóm. Bầy thú, bầy chim, bầy trẻ con. <> (Z) mbaiz [ba:i2]. Idem. mbaiz moz ‘một bầy bò’.
7. (V) bèo [bƐu2]. Loài thực vật sống nổi trên nước. Băm bèo, thái rau. Rẻ như bèo. <> (Z) biuz [pi:u2]. Idem. Rin cauh biuz mbouj sanq ‘ném đá khó bề khiến cho bèo tan’.
8. (V) bẻo [bƐu3]. Trong chà bẻo, chèo bẻo: Tên một loài chim, lông đen, đuôi dài, chẻ thành hai nhánh. <> (Z) beuj [pe:u3]. Trong ciq beuj: Idem.
9. (V) bỏ [bɔ3]. Đặt, để vật vào nơi nào đó. Tiền bỏ ống. <> (Z) box [po4]. Idem. Dawz gaeu box gang ‘bỏ gạo vào chum’.
10. (V) bóc [bɔkp7]. Lột bỏ lớp vỏ ngoài. Bóc lạc. Bóc ngắn cắn dài. <> (Z) bok [po:k7]. Cởi bỏ lớp bọc ngoài. Bok ndang ‘cởi áo’.
11. (V) bón [bɔn5]. Đút cho ăn dần từng tí một. Bón trẻ ăn. Bóm từng thìa cháo cho người ốm. <>(Z) bonj [po:n3]. Idem. bonj lungdik ‘bón trẻ ăn’.
12. (V) bọn [bɔn6]. Một nhóm người, một lũ người. Bọn trẻ. Bọn con buôn. <> (Z) mbongh [bo:ŋ6]. Một số đông người. mbongh mawz ‘lũ chúng mày’.
13. (V) bọt [bɔt6]. Bong bóng nước nhỏ li ti. Bọt bèo. <> (Z) foed [fot8]. Idem. Foed fauz ‘bong bóng nước’.
14. (V) bô [bo1]. Trong bô bô: Nói to, không giữ mồm giữ miệng. Bô bô cái mồm. <> (Z) boq [po5]. Idem. Gangj boq ‘nói phét, ba hoa’.
15. (V) bố [bo5]. Người cha. Con trai giống cha. <> (Z) boh [po6]. Idem. De dwg boh gou ‘Ông ấy là bố tôi’.
16. (V) bớt [bɤt7]. Làm cho ít đi, giảm thiểu. Bớt ăn bớt mặc. <> (Z) mbaet [bat7]. Idem. Mbaet gwn mbaet yungh ‘bớt ăn bớt tiêu’.
17. (V) bớt [bɤt7]. Vết sạm hiện rõ trên da. Trên cánh tay có cái bớt. <> (Z) mbad [ba:t8] Idem. Ga hưnj mbad ‘chân lên nhọt’.
18. (V) buôn [buon1]. Mua để bán lại lấy lãi. Làm nghề buôn bán. <> (Z) buenq [pu:n5]. Idem. Guh cangh buenq ‘buôn bán nhỏ, buôn vặt’.
19. (V) bừa [bɯa2]. Nông cụ kéo lê, làm cho đất phẳng và sạch cỏ. Con trâu đi bừa. <> (Z) bw [phɯ1]. Idem.
20. (V) bươn [bƜɤn1]. Đi vội. Lang bạt khắp nơi. Bươn chải. Bươn bả. <> (Z) banh [pa:n6]. Đi lung tung, lang bạt.
21. (V) bương [bɯɤŋ1]. Loài tre ống to và thẳng. Ống đựng bằng lóng cây này. Xách bương đi tưới rau. <> (Z) mbaengq [baŋ5]. Idem. mbaengq cuk ‘ống bương đựng cháo’.
22. (V) bứt [bƜt7]. Dùng tay làm cho đứt lìa. Bứt cỏ, bứt hoa. <> (Z) mbaet [bat7] / mbit [bit7]. Hái, ngắt. Mbaet byaek ‘hái rau’.
23. (V) cá [ka5]. Động vật có xương ở dưới nước, thở bằng mang. Cá chậu chim lồng. <> ca [ɕa1]. Idem.
24. (V) cái [kai5]. To, lớn, hàng đầu. Chiêc trống cái. Ngón chân cái. <> (Z) gaij [ka:i3]. Idem.
25. (V) cái [kai5]. Tiếng trỏ đơn vị vật thể. Cái thì đỏ, cái thì vàng, cái nào cũng đẹp. <> gaiq [ka:i5]. Idem. Gaiq neix ‘cái này’.
26. (V) cám [kam5]. Chất bột do lớp vỏ lụa hạt gạo vỡ vụn ra khi giã. Cho lợn ăn cám. <> (Z) raemz [ɣam2]. Idem. Miz raemz ndei ciengx mou ‘có cám để nuôi lợn’.
27. (V) cạo [kau6]. Dùng dao làm đứt sạch lông hoặc lớp vỏ ngoài. Đầu cạo trọc lóc. Cạo khoai. <> gauq [ka:u5]. Idem. Gauq cienj ‘dao cạo’.
28. (V) cày [kăi2]. Nông cụ có cán gỗ và lưỡi sắt, cắm và đẩy đi để lật xới đất. Cày sâu cuốc bẫm. Con trâu đi trước, cái cày đi sau. <> (Z) cae [ɕai1]. Idem. Fag cae ‘cái cày’ . Haet cae moux geij naz ‘một buổi sáng cày được hơn mẫu ruộng’.
29. (V) cằm [kăm2]. Phần dưới cùng của khuôn mặt. Tay chống cằm. <> (Z) giemz [ki:m2]. Idem. Giemz zhangz ‘cái cằm’.
30. (V) cặp [kăp8]. Thành đôi. Một cặp vợ chồng. <> gaep [kap7]. Kết thành một đôi. Dox gaep guh gvan baz ‘kết với nhau thành cặp vợ chồng’.
31. (V) cầm [kɤ̆m2]. Nắm, giữ trong tay. Hai tay cầm bốn trái dưa. <> (Z) gaem [kam1]. Idem. Dawz vaiz aeu gaem boek ‘giữ trâu phải cầm lấy dây chão’.
32. (V) chà [ca2]. Cành cây nhiều nhánh nhỏ, dùng để rào hoặc thả dưới nước cho cá đến ở. Thả chà (trà). <> (Z) cah [ɕa6]. Nhành cây gai. Rào giậu. Gunz bya miz cah lai ‘trên núi có nhiều cây gai’. Cah suen byaek ‘rào vườn rau’.
33. (V) chạc [cak8]. Dây bện. Xỏ chạc vào mũi trâu. <> (Z) cag [ɕa:k8]. Idem. Cag gyang ‘dây bện bằng xơ cọ’.
34. (V) chạm [cam6]. Khắc trổ trên đồ vật. Chạm tủ chè. <> (Z) camx [ɕa:m4]. Idem. Camx sigbei ‘chạm / khắc bia đá’.
35. (V) chang [caŋ1]. Sáng trưng, sáng chói. Chói chang. Nắng chang chang. <> (Z) cangj [ɕaŋ3]. Idem. Ndong cangj ‘sáng choang’.
36. (V) chão [cau4]. Dây bện loại to, bền. Dai như chão. <> (Z) caeuz [ɕau2]. Dây xỏ mũi trâu. Dawz vaiz aeu gaem caeuz ‘giữ trâu phải nắm lấy chão’.
37. (V) cháo [cau5]. Món ăn nấu loãng từ gạo hoặc bột. Cơm ráo cháo nhừ. <> caux [ɕa:u4]. Cơm (?). Gin caux ‘ăn cơm’.
38. (V) chạy [căi6]. Di chuyển nhanh bằng đôi chân. Sấm đằng đông vừa trông vừa chạy. <> (Z) caij [ɕa:i3]. Idem.
39. (V) chăng [căŋ1] / giăng [zaŋ1]. Vây bủa. Con nhện giăng tơ. <> (Z) cang [ɕa:ŋ1]. Idem. Bae dah cang bya ‘đi sông bủa (giăng) cá’.
40. (V) chặp [căp6]. Một chốc lát. Trời mưa một chặp rồi tạnh ngay. <> (Z) yaep [jap7]. Idem. Gou yaep ndeu menh bae ‘Tôi đợi một chốc rồi đi’.
41. (V) chậm [cɤ̆m6]. Không nhanh, tốc độ thấp. Trâu chậm uống nước đục. <> (Z) yaem [jam1]. Idem. Mwngz yaem yaem byaij ‘Anh đi từ từ nhé’.
42. (V) chật [cɤ̆t8]. Nhỏ hẹp, không đủ chỗ chứa. Phố chật người đông. <> (Z) caenz [ɕan2]. Chật chội, hẹp hòi. Sim caenz ‘bụng dạ hẹp hòi’.
43. (V) chen [cƐn1]. Lấn , lách giữa đám đông. Người đi quấn áo chen chân. <> (Z) caenx [ɕan4]. Idem. Caenz haeuj bae yawj ‘chen vào xem’. Ngoenz hauw vunz caenz lai ‘Ngày chợ phiên người chen chúc nhau’.
44. (V) chếch [cec7]. Lệch, không chính giữa. Nhìn chếch sang bên trái. <> (Z) caek [ɕak7]. Idem. Aen daiz neix cuengq caek loh ‘chiếc bàn này lệch rồi’.
45. (V) chênh [ceɲ1]. Không ngang bằng, không bằng phẳng. Hai đứa chênh nhau vài tuổi. Bàn kê chênh. <> (Z) ceng [ɕe:ŋ1]. Idem. Ceng ndaej gyae ‘chênh nhau khá xa’.
46. (V) chóc [cɔkp7]. Trong chim chóc. Chim chóc đầy rừng. <> (Z) roeg [ɣok8]. Idem. Duz roeg douh gwnz faex’chim đỗ trên cây’ / cok [ɕo:k7]. Chim sẻ. Roeg cok youq lai yiemh guh rongz ‘chim sẻ làm tổ dưới mái hiên’.
47. (V) chọc [cɔkp8]. Đâm. Đẩy mạnh vào đối tượng bằng vật thẳng và cứng. Chọc quả bưởi trên cây. Chọc tiết lợn. (Z) coeg [ɕok8]. Idem. Deng oen coeg haeuj fwngz ‘bị gai đâm vào tay’.
48. (V) chớ [cɤ5]. Đừng, không nên. Ai ơi chớ bỏ ruộng hoang. <> (Z) caej [ɕai3]. Idem. Caej luenh yungh cienz ‘chớ nên tiêu tiền bừa bãi’.
49. (V) chú [cu5]. Em trai của cha. Nó lú có chú nó khôn. <> (Z) cuj [ɕu3]. Idem.
50. (V) chuối [cuoi5]. Loài cây nhiệt đới, thân cây là các bẹ lá ôm nhau, cho quả thành buồng. <> (Z) gyoij [kjo:i3]. Idem.
51. (V) cong [kɔŋm1]. Dáng uốn vòng, không thẳng, không gấp khúc. Cành cây cong. <> (Z) goeng [koŋ5]. Idem. Rap naek hanz ci goeng ‘gánh nặng đến nỗi đòn gánh cong cả xuống’.
52. (V) còng [kɔŋm2]. Lưng khom, lưng gù. Bà Còng đi chợ. <> (Z) gungx [kuŋ4]. Idem. Hwet gungx ‘lưng còng, lưng gù’.
53. (V) cóng [kɔŋm5]. Tê cứng vì rét. Rét quá, cóng cả tay. <> (Z) gongj [ko:ŋ3]. Idem. Fwngz gongj ‘cóng cả tay’.
54. (V) cổ [ko3]. Phần cơ thể nối giữa đầu và mình. Hươu cao cổ. Một cổ hai tròng. <> (Z) goz [ku1]. Idem.
55. (V) cúi [kui5]. Đầu và cổ gục xuống. Cúi chào. Cúi mặt làm thinh. (V) goz [ku1]. Idem.
56. (V) của [kua3]. Đồ vật và tiền bạc thuộc sở hữu của ai đó. Của ăn của để. <> goz [ku6]. Idem. Trong guh gaiq ‘của cải, đồ đạc’.
57. (V) cuốc [kuok7]. Dụng cụ đào xới đất. Vác cuốc ra vườn cuốc đất. <> (Z) guek [ku:k7] / gvak [kwa:k7]. Idem. Dawz guek bae guek namh ‘Mang cuốc đi cuốc đất’.
58. (V) cụt [kut8]. Thiếu hụt, mất đi đoạn cuối. Chó cụt đuôi. Chim cánh cụt. <> (Z) gud [kut8]. Idem. Ma rieng gud ‘chó đuôi cụt’.
59. (V) cứ [kɯ5]. Vẫn giữ ý định hay hành động như cũ. Đừng sợ, cứ nói. Nó vẫn chứng nào tật ấy. <> (Z) gwq [kɯ5]. Idem. De gwq riu ‘nó vẫn cứ cười’.
60. (V) cứng [kɯŋ5]. Rắn chắc. Chân cứng đá mềm. <> (Z) geng [ke:ŋ1]. Idem. Bya dai ndang geng ‘cá chết thì thân nó cứng’.
61. (V) dài [zai2]. Có trường độ tương đối lớn. Dài lưng tốn vải. <> (Z) raez [ɣai2]. Idem. Diuz cag neix caen raez ‘sợ dây thừng này dài’.
62. (V) dặm [zăm6]. Quảng đường, bước đường. Dặm về còn xa. <> (Z) yamq [ja:m5]. Bước chân, bước đi. Song yamq roen ‘hai bước chân’. Yamq din ‘dấn bước’.
63. n(V) dâm [zɤ̆m1]. Màu đen. Chỉn thấy cái hạc dâm bay liệng. <> (Z) ndaem [dam1]. Idem. Naij ndaem lumj dukrek ‘mặt đen như giẻ lót nồi’.
64. (V) dần [zɤ̆n2]. Đồ đan bằng nan tre, có lỗ nhỏ, dùng làm sạch gạo sau khi xay lúa. Nomg nia thúng mủng dần sàng. <> (Z) ranz [ɣan2]. Idem. Ndaw ranz rang mbouj lad ‘Trong nhà dần sàng đều chẳng có’.
65. (V) dâng [zɤ̆ŋ1]. Đưa lên cúng, tặng một cách cung kính. Làm lễ dâng hương. <> (Z) daengj [taŋ3]. Idem. Daengj cogoeng ‘dâng cúng tổ tiên’.
66. (V) dè [zɛ2]. Tự hạn chế, tằn tiện trong khi dùng. Ăm tiêu dè sẻn. <> (Z) ce [ɕe1]. Idem. Ciem ce ‘kiệm dè’.
67. (V) dẹp [zɛp8]. Thu gọn vào một chỗ hoặc bỏ đi. Dọn dẹp nhà cửa. <> (Z) caeb [ɕap8]. Idem. caeb conz doxgaiq ‘dọn dẹp đồ đac’.
68. (V) diều [zieu]. Diều hâu, loài chim to, thường bắt gà con ăn thịt. <> (Z) yiuh [ji:u6]. Idem.
69. (V) dỏ [zɔ3]. Trong dòm dỏ: dòm ngó vẻ dò xét. Dòm dỏ nhà người ta. <> (Z) yoj [jo3]. Dò xem. Gou bae yoj gaeuj ‘tôi đi ngó xem’.
70. (V) dòm [zɔm2]. Nhìn qua chỗ hở, vẻ dò xét. <> Bình dưa lọ muối chắt chiu nom dòm. <> (Z) ndomq [do:m5]. Idem.
71. (V) dọn [zɔn6]. Thu xếp, gom dồn lại. Thu dọn đồ đạc. Dọn dẹp nhà cửa. <> (Z) conz [ɕon2]. Idem. Ndaw ranz aeu caeb conz ‘Dọn đồ đạc trong nhà lại’. Dawz gij bwnh conz ndei Thu dọn chỗ phân bón kia lại’.
73. (V) dựng [zɯŋ6]. Đặt vật chiều thẳng đứng. Dựng cột nhà. <> (Z) daengj [taŋ3]. Dawz faex daengj hwnjdaeuj ‘Dựng khúc gỗ này lên’.
74. (V) đàng [daŋ2] / đường [dɯɤŋ2]. Lối đi lại. Đi một ngày đàng, học một sàng khôn. <> (Z) dangz [ th a:ŋ2]. Idem.
75. (V) đào [dau2]. Dùng dụng cụ moi đất lên. Đào củ mài. <> (Z) daeuq [tau5]. Idem. Daeuq duh namh ‘đào củ lạc’.
76. (V) đạp [dap8]. Giẫm chân lên. Chân đạp lên sỏi đá. <> (Z) dab [ta:p8]. Idem. Din dab hwnj daengq ‘chân đạp lên ghế’.
77. (V) đằn [dăn2]. Dùng sức hoặc vật nặng đè xuống. Khúc gỗ đằn lên chân. <> (Z) daenz [tan2]. Idem. Aeu rinbya daeuj daenz ‘Lấy đá đằn lên’.
78. (V) đâm [dɤ̆m1]. Va chạm mạnh, húc vào. Hai con trâu đâm nhau. <> (Z) daemj [tam3]. Idem. Vaiz dox daemj ‘trâu húc nhau’ / daem [tam1]. Va phải Haet dox daemj , haemh dox dengj ‘sáng va tối đụng’.
79. (V) đâm [dɤ̆m1]. Chích vào, thọc vào. Kim đâm vào tay. <> (Z) ndaemq [dam5]. Idem. Gaj mou ciuq hoz ndaemq ‘đâm thẳng vào cổ họng con lợn’.
80. (V) địu [diu6]. Dùng túi mang theo. Địu con lên rẫy. <> (Z) diuj [thi:u3]. Mang theo. Mungz diuj daeh ‘Tay mang túi vải’.
81. (V) đọi [dɔi6]. Chén, bát ăn cơm. Miếng khi đói bằng đọi khi no. <> (Z) duix [tu:i4]. Idem.
82. (V) đọt [dɔt8]. Ngọn, búp lá. Đọt chuối.<> (Z) dug [tuk8]. Idem. Song ~ byaek ‘hai đọt rau’.
83. (V) đồ [do2]. Vật dụng. Đồ đạc trong nhà. <> (Z) dox [to4]. Idem. Trong doxgaiq ‘đồ đạc’.
84. (V) đỗ [do4] / đậu [dɤ̆u6]. Dừng, nghỉ lại. Chim đỗ trên cành. <> (Z) duh [tu6] / douh [tou6]. Idem. Duzroeg duh gwnz faex ‘chim đỗ trên cành’.
85. (V) đồi [doi2]. Nơi đất đá nổi cao. Ngọn đồi trọc. <> (Z) ndoi [do:i1]. Idem. Soengq gvaq ndoi gvaq ndoeng, de song boux nanz liz ‘Tiễn nhau qua đồi lại qua rừng, hai người vẫn khó lòng chia tay’.
86. (V) đốn [don5] / đẵn [dan4]. Chặt cây, ngã gỗ. Đốn cây. Chém tren đẵn gỗ trên ngàn. <> (Z) donj [to:n3]. Chặt khúc. Go faex donj geij geh ‘một cây chặt thành mấy khúc’.
87. (V) đồng [doŋ2]. Vùng đất cày cấy, trồng trọt. Cày đồng đang buổi ban trưa. <> (Z) doengh [toŋ6]. Idem.
88. (V) đứt [dɯt7]. Lìa ra, rời ra. Nòng nọc đứt đuôi. <> (Z) daek [tak7]. Idem.
89. (V) éo [ɛu5]. Màu xanh sáng. Xanh éo. <> (Z) heu [he:u1]. Idem. Byaek heu ‘bắp cải xanh’.
90. (V) ếch [ec7]. Sinh vật cùng loài với nhái mà to hơn, ở ao hồ. Ếch ngồi đáy giếng. <> (Z) aek [ak7]. Idem.
91. (V) gà [ɣa2]. Loài gia cầm, con trống gáy về sáng. Con gà cục tác lá chanh.<> (Z) gaeq [kai5]. Idem. ~ boux ‘gà trống’.
92. (V) gác [ɣak7]. Trong gốc gác: nguồn gốc, lai lịch. Gốc gác nhà ta ở Hà Tĩnh. <> (Z) rag [ɣa:k8]. Phần rễ của cây. Rag faex ‘rễ cây’.
93. (V) gái [ɣai5]. Người thuộc giới nữ. Sinh được một gái một trai. <> (Z) gaij [kha:i3]. Idem.
94. (V) gạo [ɣau6]. Nhân hạt lúa, chứa tinh bột. Thóc cao gạo kém. <> (Z) gaeuj [khau3]. Idem. Gaeuj nu ‘gạo nếp’.
96. (V) gạo [ɣau6]. Cây cùng họ với cây gòn, cao to, hoa đỏ, quả có xơ bông. Đầu làng có cây gạo. <> (Z) reux [ɣe:u4]. Idem. Maex reux ‘cây gạo’. Va reux ‘hoa gạo’.
97. (V) gàu [ɣău2]. Chất cáu bẩn từ da đầu. Đầu có nhiều gàu. <> (Z) raeu [ɣau1]. Idem. Gwnz gyaeuj miz raeu ‘trên đầu có gàu’.
98. (V) gằm [ɣăm2]. Cúi mặt yên lặng. Xấu hổ, cúi gằm mặt xuống. <> (Z) gaemz [kam2]. Idem. gaemz gyaeuj ‘cúi đầu’.
99. (V) gắp [ɣăp7]. Dùng kẹp hay đũa cặp lấy vật gì. Gắp lửa bỏ tay người. <> (Z) gip [kip7]. Gắp, nhặt. Gip haex vaiz ‘gắp/nhặt phân trâu’.
100. (V) gặp [ɣăp8]. Cùng thấy mặt nhau tại một nơi. Người đâu gặp gỡ làm chi. <> (Z) roeb [ɣop8]. Idem. Roeb sou youq Namningz ‘gặp các ông ở Nam Ninh’.
101. (V) gắt [ɣăt7]. Nồng đậm quá mức, gây cảm giác khó chịu. Nước mắm mặn gắt. <> (Z) gaet [kat7] / get [ke:t7]. Idem. Gij laeuj neix gaet lai ‘rượu này gắt quá’.
102. (V) gật [ɣɤ̆t8]. Gục đầu ngẩng lên, tỏ ý tán đồng. Anh ấy gật một cái là xong ngay. Ông ta gật gù tán thưởng. <> (Z) ngaek [ŋak7]. Trong ngaek gyaeuj ‘gật gù’.
103. (V) gâu [ɣɤ̆u1]. Tiếng chó sủa. Chó sủa gâu gâu. <> (Z) raeuq [ɣau5]. Idem. Ma raeuq ‘chó gâu’.
104. (V) ghé [ɣɛ5]. Liếc mắt nhìn xéo. Ghé mắt trông lên thấy bảng treo. <> (Z) rez [ɣe2]. Idem. Lwgda rez gvaqbae ‘ghé mắt nhìn’.
105. (V) giàm [zam2]. Lồng chim. Nào ai đan giậm giật giàm bỗng dưng. <> (Z) camj [ɕa:m3]. Lồng gà bằng tre. Aeu camj daeuj camj gaeq ‘mang lồng tới nhốt gà’.
106. (V) giạm / dạm [zam6]. Ướm hỏi trước. Giạm vợ cho con . <> (Z) cam [ɕa:m1]. Xin hỏi. cam nuengx bae gizlawz ‘xin hỏi cô nàng đi đâu vậy’.
107. (V) giàn [zan2]. Mặt bằng được kê dựng lên cao. Giàn mướp. <> (Z) canz [ɕa:n2]. Dak haeux youq gwnz canz ‘trên giàn đang phơi thóc’.
108. (V) giày [zăi2]. Đồ dùng có đề mang kín bàn chân. Giày da Nam Định. <> (Z) yaiz [ja:i2]. Idem. yaiz baengz ‘giày vải’.
109. (V) giặm [zăm6]. Trồng tỉa xen vào chỗ trống. Giặm mạ vào ruộng. <> (Z) semz [θe:m2] / comj [ɕo:m3]. Idem. semz gyaj ‘giặm mạ’. Gumz lawz noix cix comj ‘mảnh đất còn trống kia cần phải cấy giặm mạ vào’.
110. (V) giắt [zăt7]. Nước đái tháo dây dưa từng tí một. Đái giắt. <> (Z) yaet [jat7]. Idem. Nyouh yaet ‘đái giắt’.
111. (V) giặt [zăt8]. Giũ quần áo với nước cho sạch. Nước trong, ta giặt yếm.<> (Z) saeg [θak8]. Idem. Bae haenz dah saeg buh ‘ra sông giặt áo’.
112. (V) giấm [zɤ̆m5] / rấm [ʐɤ̆m5]. Giữ, giấu kín, ủ kín. Giấm xoài cho chín. Giấm giúi trao cho nhau. <> (Z) yaem [jam1] / yaemh [jam6]. Ngầm, lén. Aeu lwgda dox yaem ‘đưa mắt ngầm mách bảo nhau’. Gou yaemh yaemh daengz henz mwngz ‘Tớ len lén đến sát bên cạnh’.
113. (V) giậm / dậm [zɤ̆m6]. Nện bàn chân xuống đất. Giậm chân kêu tời. <> (Z) caemq [ɕam5] / daemh [tam6]. Idem. Caemq din ‘giậm chân’. Lwg nyez fat heiq caemq caemq daenh daenh ‘thằng bé bực tức liên tục giậm chân’.
114. (V) giậm [zɤ̆m6]. Đồ đan bằng tre để bắt cá. Đánh giậm. Nào ai đan giậm giật giàm. <> (Z) yaemz [jam2]. Vó đánh cá. Aeu saeng bae yaemz bya ‘mang vó đi đánh bắt cá’.
115. (V) giấu [zɤ̆u5]. Cất giữ kín. Giấu kín mọi chuyện. <> (Z) caeu [ɕau1] / yaeuj [jau3]. Cất giữ. Yaeuj ceh fag guh faen ‘cất giữ những hạt thóc chắc mẩy để làm giống’.
116. (V) giun [zun1]. Loài trùng có đốt, sống chui dưới đất. Con giun xéo lắm cũng quằn. <> (Z) nduen [du:n1] / ndwen [dɯ:n1]. Idem. Dwk ndwen coq bit ‘Đào giun cho vịt ăn’.
117. (V) giương [zɯɤŋ1]. Mở rộng, căng ra, nâng cao. Giương buồm ra khơi. Giương đôi mắt ếch. <> (Z) caengz [ɕaŋ2]. Idem. Caengz da dwk yawj ‘Giương mắt nhìn’.
118. (V) gõ [ɣɔ4]. Đập nhẹ vào vật cứng, nghe thành từng tiếng. Tụng kinh gõ mõ. Nghe lạch cạch có tiếng gõ cửa. <> (Z) roq [ɣo2]. Idem. roq dou ‘gõ cửa’. roq gyong ‘gõ trống’.
119. (V) gom [ɣɔm1]. Dồn lại, tích góp lại. Thu gom tiền để mua trâu. <> (Z) rom [ɣo:m1]. Rom cienz caep ranz moq ‘gom tiền làm nhà mới’.
120. (V) gốc [ɣokp7]. Phần dưới cùng của thân cây. Vốn có ban đầu. ThằngCuội ngồi gốc cây đa. Trả nợ cả gốc lẫn lãi.<> (Z) goek [kok7]. Idem. Goek raemx ‘nguồn nước’. Saw goek ‘chữ cổ’. Miz goek cij miz lei ‘có gốc mới có lãi’.
121. (V) gối [ɣoi5]. Trong đầu gối. Mặt trước nơi ống chân khớp với đùi. Đói đầu gối phải bò. <> (Z) gaeuh [kau6]. Trong Duzgaeuh ‘đầu gối’.
122. (V) há [ha5]. Mở to miệng. Há miệng mắc quai. Há miệng chờ sung <> (Z) aj [a3]. Idem. Aj bak dwk hunghung ‘miệng há cực to’.
123. (V) han [han1]. Hỏi, hỏi han. Trước xe đon đả han chào. <> (Z) han [ha:n1]. Trả lời . De cam bae cam dauq cungj mbouj han ‘hỏi tới hỏi lui mãi mà nó cũng không trả lời’.
124. (V) háng [haŋ5]. Phần cuối của thân người, giữa hai đùi. Đứng giạng háng. <> (Z) hangx [ha:ŋ4]. Idem.
125. (V) hao [hau1]. Hao hao: vẻ giống nahu. Chị em nó hao hao giống nhau. <> (Z) haeuj [hau3]. Idem. Naj de haeuj daxboh ‘nó hao hao giống bố’.
126. (V) hằm [hăm2]. Hằm hằm; vẻ mặt tức giận. <> (Z) haemz [ham2]. Idem. Ho haemz ‘căm tức’.
127. V) hằn [hăn2]. Nổi vết. Vết tấy. Trán hằn nhiều vết nhăn. <> (Z) haenz [han2]. Idem.
128. (V) hếu [heu5]. Màu trắng bệch. Cái gáy trắng hếu. Hàm răng trắng hếu <> (Z) hau [ha:u1]. Màu trắng.
129. (V) hoẵng [hwaŋ4]. Thú rừng, giống nai, lông vàng. gvangh [kwa:ŋ6]. Idem.
130. (V) hong [hɔŋm1]. Hơ đồ vật bên lửa cho khô. Hong quần áo bên bếp lửa.<> (Z) hangq [ha:ŋ5]. Idem. Bya cuengq gwnz feiz hangq ‘hong cá trên lửa’.
131. (V) hong [hɔŋm6]. Khoang trống trong cổ, nơi tiếp giáp với miệng và thực quản. Nói rát cả cổ họng. <> (Z) hongh [ho:ŋ6]. Idem.
132. (V) hôm [hom1]. Buổi tối. Ăm bữa hôm, lo bữa mai. <> (Z) haemh [ham6]. Idem. Haemh gonq ‘đêm hôm trước’.
133. (V) kẽ [kɛ4]. Chỗ hở hẹp. Nhìn qua kẽ hở. Kẽ răng. <> (Z) geh [ke6]. Idem. Geh dou ‘khe cửa’.
134. (V) kén [kɛn4]. Chọn lựa. Kén cá chọn canh. <> (Z) genj [ke:n3]. Idem. Genj haeux ceh ‘chọn giống lúa’.
135. (V) kéo [kɛu5]. Đồ dùng để cắt, gồm hai thanh ghép với một trục quay. Dùng kéo cắt vải. <> (Z) geuz [ke:u2]. Idem.
136. (V) kéo [kɛu5]. Lôi đi. Cùng nối nhau đi theo hàng dài. Trâu kéo cày. Đàn kiến kéo nhau đi. <> (Z) geuj [ke:u5]. Idem. Hoenz geuj hwnj mbwn ‘khói cuốn lên trời’.
137. (V) kẹp [kɛp6]. Cắp, ép chặt vật vào giữa. Càng cua kẹp tay. <> (Z) geb [ke:p8]. Idem.
138. (V) kham [xam1]. Kham khổ: khổ cực, nghèo nàn. Ăn uống kham khổ. Đời sống kham khổ. <> (Z) gaemz [kham2]. Đắng. Mbei doek cauq lawz cauq lawz gaemz ‘mật rơi vào nồi nào thì nồi ấy đắng’ / goem [khom2]. Idem. Lwg goem ‘mướp đắng’ / gum [khum1]. Idem. / haemz [ham2]. Đắng . Gian nan. ~ baenz mbei ‘đắng như mật’ Gwn ~ gwn hoj ‘ngậm đắng nuốt cay’.
139. (V) khẳng [xăŋ3]. Khẳng khiu: gầy khô. Chân tay khẳng khiu. Cành cây khẳng khiu. <> (Z) gaengz [kaŋ2]. Gầy yếu.
140. (V) kiệt [kiet8]. Keo kiệt: hà tiện, bủn xỉn. Lão già keo kiệt. <> (Z) ged [ke:t8]. Idem. Mwngz ndaej ged baenzlai? ‘keo kiệt đến thế sao?’.
141. (V) là [la2]. Tiếng chỉ báo đối tượng được giải thích. Em là con gái nhà quê. <> (Z) laz [la2]. Idem.
142. (V) lăm [lăm1]. Cà lăm: nói lắp. Nó mắc tật nói cà lăm. <> (Z) laemh [lam6]. Idem. Vunzlaux gangj haengj laemh ‘ông lão nói cứ hay lặp đi lặp lại’.
143. (V) lăn [lăn1]. Quay tròn chuyển đi trên một bề mặt. Cho gỗ lăn xuống chân đồi. <> (Z) laen [lan2]. Xe cuộn lại. Aeu biz ma laen cag ‘Lấy cỏ râu rồng xe dây thừng’.
144. (V) lấn [lɤ̆n5]. Chen đẩy, vượt sang. Quân giặc xâm lấn bờ cõi. <> (Z) laenz [lan2]. Idem. laenz gvaq maz ‘lấn sang’.
145. (V) lọc [lɔkp8]. Lừa lọc: lừa dối, lường gạt. <> (Z) luk [luk7] / lok [lo:k7]. Idem. Mwngz gaej luk gou ‘mày chớ có lừa tao’.
146. (V) lòi [lɔi2]. Lợn lòi: lợn rừng. <> (Z) laih [la:i6]. Idem.
147. (V) lột [lot8]. Bóc, tách, trút bỏ lớp ngoài. Rắn lột xác. <> (Z) lot [lo:t7]. Bong da, trầy da.
148. (V) lợm [lɤm6]. Cảm giác buồn nôn. Lợm giọng buồn nôn. <> (Z) laemz [lam2]. Idem. Muz laemz: ‘buồn nôn’.
149. (V) lu [lu1]. Chum to đựng nước. <> (Z) luh [lu6]. Idem.
150. (V) luồn [luon2]. Chui qua lỗ hổng. Xe chỉ luồn kim. <> (Z) luen [lu:n1]. Idem. Duz ma luen congh ciengz ‘chó chui qua lỗ chân tường’.
151. (V) lưa [lɯa1]. Thừa ra, sót lại. Kẻ mất người lưa. <> (Z) lw [lɯ1]. Idem. Noh lw dwk baenz raeuh ‘còn lại khá nhiều thịt’.
152. (V) lưỡi [lɯɤi4]. Bộ phận mềm trong miệng, dể nếm thức ăn. Uốn ba tấc lưỡi. <> (Z) linx [lin4]. Idem.
153. (V) má [ma5]. Chó má:loài chó. <> (Z) ma [ma1]. Chó. Duz ma luen congh ciengz ‘Chó chui qua lỗ chân tường’.
154. (V) má [ma5]. Lúa má: trỏ lúa đang trồng. Ngoài đồng lúa má tốt tươi. <> (Z) max [ma4]. Lúa nương.
155. (V) mái [mai5]. Trỏ giống cái loài chim. Gà mái ấp trứng. <> (Z) maih [ma:i6]. Trỏ bộ phận sinh dục giống cái.
156. (V) mảnh [mɛɲ3]. Mẩu vỡ từ vật cứng. Mảnh chĩnh vứt ngoài bụi tre. <> (Z) meng [me:ŋ1]. Idem.
156. (V) mào [mau2]. Chốc mào: loài chim có chùm lông dựng cao trên đầu. <> (Z) mauh [ma:u6]. Roegmauh: ‘chốc mào’.
157. (V) mày [măi2]. Nhân xưng ngôi 2 số ít. <> (Z) mawz [maɯ2]. Idem.
158. (V) mận [mɤ̆n6]. Loài cây họ đào, hoa trắng, quả chua. Bây giờ Mận mới hỏi Đào. <> (Z) maenj [man3]. Idem. Mak maenj mbouj cug gwn cix soemj ‘Quả mận chưa chín ăn sẽ chua’.
159. (V) mất [mɤ̆t5]. Không còn, hết, chết. Tiền mất tật mang. <> (Z) maet [mat7]. Idem.
160. (V) mẹ [mɛ6]. Người đàn bà sinh ra con. Một lòng thờ mẹ kính cha. <> (Z) meh [me6]. Idem. Lwg gaej lumz meh ciengx ‘Làm con chớ quên ơn mẹ sinh thành’.
161. (V) mệt [met8]. Nhọc, mỏi, kiệt sức. Làm lụng không biết mệt. <> (Z) mieg [mi:k8]. Idem. Gij rengz gou mieg liux ‘Tôi đã mệt mỏi lắm rồi’.
162. (V) mịn [min6]. Bột nhỏ hạt, sờ thấy mướt tay. Khoai mịn. Mịn màng. <> (Z) mienz [mi:n2]. Idem. Gij mba haeux neix mienz lai ‘Chỗ bột gạo ấy thật là mịn’.
163. (V) mịt [mit8]. Nom không rõ, lu mờ. Mờ mịt, mịt mùng. <> (Z) myad [mja:t8]. Idem. Haemh neix ndaundeiq müo myad myad ‘Đêm nay sao trời mờ mịt’.
164. (V) móc [mɔkp7]. Sương nặng hạt. Mưa móc tưới nhuần. <> (Z) mok [mo:k7]. Idem. Haet neix mbwn laep mok ‘Hôm nay sương mù dày đặc’.
165. (V) mọt [mɔt8]. Loài trùng nhỏ đục gỗ. Con mọt sách. <> (Z) mod [mo:t8]. Idem. Mod dwk sim faex ‘Mọt đục sâu vào thân cây’.
166. (V) mối [moi5] / mai [mai1]. Sợi chỉ, dây nối. Nhện chờ mối ai. Ông mai bà mối. <> (Z) mae [mai1]. Idem. mae goenq caiq swnj ‘Sợi đứt thì nối lại’.
167. (V) mới [mɤi5]. Trái với cũ. Dọn sang nhà mới. <> (Z) mawq [maɯ5] / moq [mo5]. Idem. Guh ranz moq ‘Dựng nhà mới’.
168. (V) mừng [mɯŋ2]. Vui sướng đón nhận điều tốt lành. Tay bắt mặt mừng. Mừng anh chị tốt đôi <> (Z) maengx [maŋ4]. Idem. Lwgngez daenj buh moq gig maengx ‘Thằng bé được mặc áo mới mừng lắm’.
169. (V) mương [mɯɤŋ1]. Ngòi dẫn nước vào ruộng. <> (Z) mieng [mi:ŋ1]. Idem. Hai mieng bae coh naz ‘Khơi mương dẫn nước vào ruộng’.
170. (V) nài [nai2]. Van xin, năn nỉ. Vật nài van xin. <> (Z) naih [na:i6]. Idem.
171. (V) nào [nau2]. Tiếng tỏ ý thúc giục. Nào ta đi thôi nào. <> (Z) nauh [na:u6]. Idem.
172. (V) này [năi2]. Đây. Này là em ruột, này là em dâu <> (Z) neix [nei4]. Idem. Gij mak neix ndei gwn ‘Những quả này ăn ngon’.
173. (V) nẫu [nɤ̆u4]. Chín nục, chín ngấu, ruỗng nát. Trái chín nấu. Buồn nẫu ruột. <> (Z) naeuh [nau6]. Ruỗng nát. Vaiz dai gok mbouj maeuh ‘Trâu chết, sừng không ruỗng nát’.
174. (V) nén [nɛn5]. Đè xuống, giằn xuống, ép chặt. Nắm cơm nén chặt. Nén lòng chờ đợi. <> (Z) naenx [nan4]. Idem. Naenx gyaq ‘ép giá’ . Maenx heiq ‘giằn lòng’.
175. (V) nga [ŋa1]. Tục tằn, ngây ngô, ngớ ngẩn. Phàm gian óc chớ nga chơi. <> (Z) ngah [ŋa6]. Đần độn. Gaenz ngah ‘người ngây’.
176. (V) ngái [ŋai5]. Xa ngái: xa xôi. <> (Z) gyae [kjai1]. Xa. Byaij roen gyae ‘đi đường xa’.
177. (V) ngại [ŋai6]. E dè, không hào hứng. Đường xa chớ ngại Ngô, Lào. <> (Z) aix [a:i4]. Idem.
178. (V) ngang [ŋaŋ1]. Lưng chừng ở giữa. Mây bay ngang đèo. Ngang lưng thì thắt bao vàng. <> (Z) gyang [kja:ŋ1]. Idem. Gyang dah ‘ngang sông’. Gyang mbaek haeux ‘lưng ống gạo’.
179. (V) ngáy [ŋăi5]. Tiếng phát ra từ miệng và mũi trong khi ngủ. Đêm nằm thì ngáy kho kho. <> (Z) gyaen [kjan1]. De ninz gyaen foxfox ‘Nó ngủ ngáy pho pho’.
180. (V) ngắc [ŋak7]. Ngúc ngắc: lắc qua lắc lại, ngúng ngẩy. <> (Z) ngak [ŋa:k7]. Ngucngak : ngúc ngắc. Ndaek neix caen ngukngak ‘Cô ta cứ ngúng nguẩy hoài’.
181. (V) ngăm [ŋam1]. Màu da hơi đen. Nước da bắt nắng ngăm ngăm đen. <> (Z) gyaemx [kjam4]. Idem. Ndaem gyaemx ‘đen thui’.
182. (V) ngắn [ŋan5]. Trường độ ít, trái với dài. Bóc ngắn cắn dài. <> (Z) gaenq [kan5]. Idem.
183. (V) ngắt [ŋat7]. Cảm giác lạnh lẽo, vắng vẻ. Lạnh ngắt. Vắng ngắt. Ngàn dâu xanh ngắt một màu. <> (Z) gyaet [kjat7] / gaet [kat7]. Buốt lạnh. Gij raemx neix gyaet lai ‘Nước chỗ này lạnh lắm’. Raemx gaet ‘Nước lạnh ngắt’.
184. (V) ngậm [ŋɤ̆m6]. Khép miệng. Giữ thức gì trong miệng và khép môi lại. Ngậm như miệng hến. Ngậm bồ hòn làm ngọt. <> (Z) iemj [i:m3] / iem [i:m1]. Idem. Iemj sae ‘hến ngậm miệng’. Bak iem raemx ‘Miệng ngậm nước’.
185. (V) nghĩ [ŋi4]. Suy xét. Tưởng nhớ đến. Nghĩ người ăn gió nằm sương xót thầm. <> (Z) ngeix [ŋei4]. Idem. Ngeix boh meh aencingz ‘Nhớ tới công ơn bố mẹ’.
186. (V) nghiêng [ŋieŋ1]. Theo chiều xiêu xiên, ngả sang một bên. Vành nón che nghiêng. <> (Z) ngeng [ŋe:ŋ1]. Idem. Ninz ngeng ‘nằm nghiêng’ . Hwnq saeu mboj ndaej ngeng ‘Dựng cột đừng để nghiêng’.
187. (V) ngòm [ŋɔm2]. Màu đen đục ngầu. Đen ngòm. <> (Z) hoemz [hom2].Đục ngầu. Raemx hoemz ndei lumh bya ‘Nước đục dễ mò cá’.
188. (V) ngon [ŋɔn1]. Hợp khẩu vị, khoái khẩu. Ăn ngon mặc đẹp. <> (Z) ngonz [ŋo:n2]. Idem. Gin ngonz lai ‘Ăn ngon quá’.
189. (V) ngốc [ŋokp7]. Ngu si, đần độn. Khôn độc, ngốc đàn. <> (Z) huk [huk7]. Idem. Boux huk ‘thằng ngốc’.
190. (V) ngốn [ŋon5]. Nuốt lấy từng miếng to. <> (Z) gyan [kja:n1]. Idem. Gyan gwn ‘Ngốn lấy ngốn để’.
191. (V) ngụm [ŋum6]. Chỗ nước được hớp uống một lần. Cho xin ngụm nước. <> (Z) gaemz [kam2]. Idem. Gwn song gaemz raemx ‘Uống vài ngụm nước’.
192. (V) nhai [ɲai1]. Dùng răng nghiền thức ăn trong miệng. Tay làm hàm nhai. <> (Z) nyaij [ɳa:i3]. Idem.
193. (V) nhánh [ɲɛɲ5] / nhành [ɲƐɲ2]. Cành cây nhỏ. <> (Z) ngingh [ŋiŋ6] / nyingh [ɳeiŋ6]. Idem. Yaeb nyingh faex guh fwnz ‘Nhặt những nhành cây làm củi đun’.
194. (V) nhắm [ɲăm5]. Nhai nếm thức ăn. Nhắm rượu. <> (Z) nyaemq [ɳam5]. Idem. Nyaemq laeuj ‘nhắm rượu’.
195. (V) nhặng [ɲaŋ1]. Ruồi xanh. <> (Z) nyaen [ɳan1]. Idem.
196. (V) nhắp [ɲap7]. Nhắm mắt, chợp mắt. <> (Z) laep [lap7]. Idem. Laep da cix raen lwnz ‘Vừa chợp mắt đã thấy bóng em’.
197. (V) nhặt [ɲăt8]. Chật, dồn, mau gấp. Bắt khoan bắt nhặt. <> (Z) nyaed [ɳat8]. Idem. Vunz nyaed lai ‘người chật rồi’. Nyaed fwnx haeuj cauq ‘Đun đầy củi vào lò’.
198. (V) nhấm [ɲɤ̆m5]. Gặm từng tí và nhai kỹ. Giám nhấm quần áo. <> (Z) nyaemj [ɳam3] / yaemj [jam3]. Idem.
199. (V) nhíp [ɲip7]. Khâu chắp lại. <> (Z) nyib [ɳip8]. Idem. Nyib buh moq ‘khâu áo mới’.
200. (V) nhỏ [ɲɔ3]. Bé, trái với “to”. <> (Z) nyoj [ɳo3]. Thu bé lại.
201. (V) nói [nɔi5]. Phát ngôn thành lời, trò chuyện. Miệng nói tay làm <> (Z) naeuz [nau2]. Idem. Dingq coenz vah mwngz naeux ‘Nghe lời mày nói’.
202. (V) óc [ɔkp7]. Bộ não. Nghĩ nát óc. <> (Z) uk [uk7]. Idem. Uk gyaeuj ‘đầu óc’.
203. (V) ôm [om1]. Quàng tay giữ chặt vào lòng. Ôm rơm nhặm bụng. <> (Z) umj [um3]. Idem. Umj lwg ‘Ôm em bé’.
204. (V) phô [fo1]. Bày ra, khoe ra. Có vàng, vàng chẳng hay phô. <> (Z) boq [po5]. Khoe khoang. Gangj boq ‘nói phét’.
205. (V) phồng [foŋm2]. Phình to lên. Phập phồng. <> (Z) bongz [po:ŋ2]. Idem. Dungx bongz ‘Bụng căng phồng lên’.
206. (V) phừng [fɯŋ2] / bừng [bɯŋ2]. Rực sáng lên. Lửa chợt bốc lên. Lửa cháy phừng phừng. Bừng sáng. <> (Z) foengx [foŋ4]. Idem. Cawj byaek aeu feiz foengx ‘Luộc rau lửa phải bốc mạnh’.
207. (V) quạ [kwa6]. Loài chim lông đen. Diều tha, quạ mổ. <>(Z) ga [ga1]. Lamjbwn roeg ga duzduz ndaem ‘Khắp nơi quạ đều đen như nhau’.
208. (V) quảy [kwai3]. Gánh một bên, bên còn lại tì tay cho cân bằng. Quảy thúng đi mua thóc. <> (Z) gvaij [kwa:i3]. Idem.
209. (V) quanh [kwɛɲ1]. Bốn bề. Vòng quanh. <> (Z) gvaengx [kwaŋ4]. Idem. Seiq gvaeng ‘chung quanh’.
210. (V) quăng [kwaŋ1]. Vứt đi. Vung ra xa. Bủa lưới quăng chài. <> (Z) gveng [kwe:ŋ1]. Idem. Gveng roengz daemz bae ‘Vứt xuống ao cho rồi’.
211. (V) què [kwɛ2]. Chân bị tật, khó đi. Gà què ăn quẩn cối xay. <> (Z) gvez [kwe2]. Idem. Ga gvez ‘chân què’.
212. (V) quét [kwɛt7]. Dùng chổi làm sạch rác. Con sãi ở chùa thì quét lá đa. <> (Z) gvet [kwe:t7]. Idem. Gvet nyapnyaj ok bae ‘Quét cho sạch rác đi’.
213. (V) rám [ʐam5]. Nắng hoặc lửa thiêu cho đỏ hoặc đen đi. / sạm [şam6]. Đen sẫm lại. Da rám nắng mà sạm đen. <> (Z) ramj [ɣa:m3]. Đốt cháy. Gaej gwn ngaiz haue ramj ‘Đừng ăn cơm đã cháy đen’.
214. (V) ràng [ʐaŋ2]. Dùng dây quấn buộc xung quanh. Ràng buộc lấy nhau. <> (Z) rangh [ɣa:ŋ6] / riengh [ɣi:ŋ4]. Nối với nhau. Rangh cieg ‘nối dây thừng’. Lumj maesei dox riengh ‘Dường như dây tơ chắp nối’.
215. (V) rêu [ʐeu1]. Loài tảo mọc nơi ẩm ướt (chân tường, vách đá). Hòn đá xanh rì lún phún rêu. <> (Z) reuz [ɣeu1]. Idem. Byaek reuz cauj noh ‘Quơ rêu nướng thịt’.
216. (V) riu [ʐiu1]. Đồ đan để xúc bắt tép. Đi riu tép. Tép riu. <> (Z) yiuz [ji:u2]. Loài tôm nhỏ, tép.
217. (V) rò [ʐɔ2]. Nước rỉ ra ngoài. Nước rò ra từ chân đê. <> (Z) roh [ɣo6]. Idem. Fwn doek ranz cix roh ‘Vừa mưa mái nhà đã dột’.
218. (V) rõ [ʐɔ4]. Hiểu ra, nhận thấy được. Hai năm rõ mười. <> (Z) rox [ɣo4]. Idem. Mwngz rox mbouj rox ‘Mày đã rõ hay chưa rõ’.
219. (V) rộc [ʐokp8]. Ruộng ở khe núi. <>(Z) lueg [lu:k8]. Idem.
220. (V) rống [ʐoŋm5]. Tiếng kêu của động vật to. Tiếng chó sủa, tiếng trâu rống. <> (Z) rongx [ɣo:ŋ4]. Idem. Vaiz rongz ‘trâu rống’. Guk rongz ‘hổ gầm’.
221. (V) rộng [ʐoŋm6]. Có kích cỡ lớn, sức chứa nhiều. Hai ống quần rộng thùng thình. <> (Z) loengz [loŋ2]. Idem. Geu buh neix loengz lai ‘Bộ áo quần này rộng quá’.
222. (V) rốt [ʐot7]. Cuối chót. Một trai con thứ rốt lòng. <> (Z) yot [jo:t7]. Idem. Boh meh gyaez lwg yot ‘Bố mẹ cưng chiều con út’.
223. (V) rưới [ʐɯɤi5]. Rách rưới: quần áo cũ nát, tơi tả. Rách rưới như gã ăn mày. <> (Z) lwiz [lɯ:i2]. Cũ nát. Vaj lwix ‘mảnh vải cũ’.
224. (V) sao [şa:u1]. Tinh tú trên trời. Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ. <> (Z) ndau [da:u1]. Idem. Ndau gwnz mbwn ‘sao trên trời’.
225. (V) sàng [şaŋ2]. Đồ đan bằng nan tre, có lỗ (thưa hơn dần) để làm sạch gạo sau khi xay thóc. Công em xay giã dần sàng. <> (Z) raeng [ɣaŋ1]. Idem. Ndaw ranz raeng mbouj lad ‘Trong nhà dần sàng đều chẳng có’.
226. (V) sai [şai1]. Nhiều, dày đặc (quả). Vườn cam sai quả. <> (Z) seiq [θe:i5]. Nhiều, đông đúc. Aen mbanj neix vunz seiq ‘dân cư bản này thật đông đúc’.
227. (V) sém [şɛm5]. Bị bắt lửa cháy ở rìa hoặc bề mặt. <> (Z) remj [ɣe:m3]. Quá lửa cháy khô. Cawj byaek remj loh ‘Rau nấu bị cháy sém rồi’.
228. (V) sét [şɛt7]. Hiện tượng phóng điện giữa mây và mặt đất, gây tiếng nổ to. Giữa đường mụ bị sét đánh chết <> (Z) deg [te:k8]. Idem.
229. (V) soi [şɔi1] / rọi [ʐɔi6]. Chiếu sáng. Ánh trăng soi sáng muôn nơi. Ngọn đuốc rọi thẳng vào hang. <> (Z) coij [ɕo:i3]. Idem. Ndit coij ‘Ánh nắng chiếu rọi’.
230. (V) suối [şuoi5]. Khe nước trong rừng. Dòng suối nhỏ chảy ra sông. <> (Z) guij [khu:i3]. Idem.
231. (V) sượng [şɯɤŋ6]. Củ luộc rồi mà chưa thật chín, hoặc không mềm. Sắn này không bở, sượng lắm. <> (Z) swnx [θɯn4]. Idem. Aen sawz neix lij swnx ‘Khoai này sượng lắm’.
232. (V) tày [tăi2]. Kiểu chào ngày xưa, hai bàn tay úp lên nhau, hơi nâng cao và đưa về phía trước. Ngươi Trung Ngộ rảo đến trước tày rằng. <> (Z) sax [θa4]. Idem.
233. (V) tăm [tăm1]. Bọt khí trong nước. Sông dài cá lội biệt tăm. <> (Z) cimq [ɕim5]. Idem.
234. (V) tí [ti5]. Một chút. Đợi một tí. <> (Z) deij [tei3]. Idem. Mwng byaij heih deij ‘Mày mau mau lên một chút’.
235. (V) thét [thɛt7]. Kêu to, quát to. Gào thét vang trời. <> (Z) sek [θe:k7]. Idem. sek vaiz ‘Thét mắng con trâu’.
236. (V) to [tɔ1]. Có kích cỡ lớn. Lớn mật to gan. Tai to mặt lớn. <> (Z) daeu [tɑu1]. Idem.
237. (V) tơi [tɤi1]. Áo chằm bằng lá, mặc che mưa. Mang tơi đội nón ra đồng. <> (Z) se [θe1]. Idem.
238. (V) trai [tʂai1]. Người thuộc giới nam. Một trai con thứ rốt lòng. <> (Z) sai [θa:i1]. Idem. Boux sai ‘đàn ông’.
239. (V) trái [tʂai5]. Bên tả, ngược với bên phải. Nó thuận tay trái. <> (Z) soix [θo:i4] / swix [θɯ:i4]. Idem. Mungz soix ‘tay trái’. Fwngz swix ‘tay trái’.
240. (V) tro [tʂɔ1] / gio [zɔ1]. Tàn than còn lại sau khi cháy. Bôi tro trát trấu vào mặt. <> (Z) gyoq [kjo6]. Idem. Gyoq feiz ‘tro tàn’.
241. (V) tròn [tşɔn2]. Hình phẳng hoặc hình khối khép vòng, không có cạnh. Yêu nhau trái ấu cũng tròn. Đêm rằm trăng tròn. <> (Z) luenz [lu:n2]. Idem. Luenz lujluj ‘tròn vành vạnh’.
242. (V) trống [tşoŋm5]. Nhạc cụ làm bằng gỗ (tang trống), hai đầu bịt da (mặt trống). Tùng tùng trống đánh ngũ liên. <> (Z) gyong [kjo:ŋ1]. Idem. Aen laz baengh aen gyong ‘Tiếng cồng phải hòa với tiếng trống’.
243. (V) trơn [tşɤn1]. Bề mặt có độ ma sát thấp, dễ trượt. Trời mưa đường đất trơn như mỡ. <> (Z) conj [ɕo:n3]. Trượt. Conj roengz ‘trượt xuống’ / lwenq [lɯ:n5]. Trơn bóng. Gwnz rin gig lwenq ‘Mặt đá thật trơn’.
244. (V) trùm [tşum2]. Bao phủ lên trên. Bóng cây trùm mái nhà. <> (Z) gyuem [kju:m1] / rumj [ɣum3]. Idem. Haemh ninz yaek gyuem denz ‘Đêm ngủ phải đắp chăn’.
245. (V) ức [ɯk7]. Phần ngực của loài chim, thú. Con gà chân cao, ức nở. <> (Z) aek [ak7]. Ngực. De enj aek dwk byaij ‘Nó ưỡn ngực mà đi’.
246. (V) ưỡn [ɯɤn4]. Vươn ngực lên phía trước. <> (Z) enj [e:n3]. Idem. De enj aek dwk byaij ‘Nó ưỡn ngực mà đi’.
247. (V) ửng [ɯŋ3]. Hơi đỏ lên. Đôi má ửng hồng / hửng [hɯŋ3]. Hơi sáng lên. Trời hửng nắng <> (Z) wenj [ɯ:n3]. Trời quang tạnh. Trời rực sáng. Mbwn wemj ‘trời tạnh’. Daeng ngoenz wenj vangjvangj ‘Trời nắng rực rỡ’.
248. (V) vác [vak7]. Đặt đồ lên vai mang đi. Nhà nông vác cuốc ra đồng. <> (Z) mbeg [be:k8]. Idem.
249. (V) vai [vai1]. Phần cơ thể giữa cổ và cánh tay. Lưng dài vai rộng. Áo vắt vai, quần hai ống ướt. <> (Z) mbaq [ba5]. Idem. Rap dwk mbaq hwnj daw ‘Gánh nhiều vai chai cả đi’.
250. (V) vải [vai3]. Vật liệu để may áo quần, dệt từ sợi bông. Mà nay áo vải cờ đào <> (Z) baix [pha:i4]. Idem.
251. (V) vẩy [vɤ̆i3]. Vung vẩy: bàn tay cử độmg liên tục . Chó vẩy đuôi mừng. <> (Z) vae [wai1]. Idem.
252. (V) vẹo [vɛu6]. Nghiêng lệch sang một bên. Dáng đi xiêu vẹo. <> (Z) mbeuj [be:u3]. Lệch, không ngay ngắn. Naengh mbeuj loh ‘Ngồi lệch rồi’. Faex mbeuj gawq mbouj baen benj ‘Gỗ cong vẹo không xẻ thành ván được’.
253. (V) vịt [vit8]. Loài gia cầm bơi trên nước. Khách đến nhà, không gà thì vịt. <> (Z) bit [pit7] / baet [pat7]. Idem.
254. (V) vứt [vɯt7]. Ném đi, quăng đi. Vứt tiền qua cửa sổ. <> (Z) vut [wut7]. Idem.
255. (V) xiên [sien1]. Nghiêng chéo một bên. Ánh nắng chiếu xiên xuống sân. <> (Z) cienx [ɕi:n4]. Idem. De byaij ngauz cienx cienx ‘Nó đi dáng xiêu vẹo’.
256. (V) xổ [so3] / sổ [ʂo3]. Thoát ra, buông ra, tháo ra. Con sáo sổ lồng. <> (Z) coq [ɕo5]. Buông, thả, tháo. Coq haeux roengz rek ‘Bỏ gạo vào nồi’. Haemh neix gou bae coq raemx ‘Tối nay tôi đi tháo nước vào ruộng’.
257. (V) xống [soŋm5]. Quần, váy. Áo xống. <> (Z) congz [ɕo:ŋ2]. Bộ (áo quần). Daenj congz buh ndeu ‘Mặc bộ quần áo’.
3. Nhận xét chung
(1) Phần lớn các ngữ tố Việt và Choang kê ra trên đây có sự tương ứng một đối một, nhưng cũng có một số trường hợp, với một hình thức bên ngôn ngữ này có thể tìm thấy vài ba hình thức tương ứng bên ngôn ngữ kia. Những hình thức song tồn này có thể là những ngữ tố cùng gốc với ít nhiều biến đổi về mặt ngữ nghĩa, song cũng có thể chỉ đơn giản là các biến thể phát âm mà thôi.
(2) Hầu hết các ngữ tố Việt và Choang được xem xét ở đây đều là đơn tiết, có thể sử dụng độc lập trong câu. Tuy nhiên cũng có những trường hợp trong khi ở ngôn ngữ này ngữ tố đang xét là từ đơn tiết, thì trong ngôn ngữ kia tương ứng với nó là một ngữ tố không độc lập (thường là trong từ láy âm).
(3) Tình hình đối ứng ngữ âm giữa các ngữ tố chung Việt và Choang là rất đa dạng và phức tạp, có thể phản ảnh những tình trạng lịch sử khác nhau của các hiện tượng. Tạm thời không xét đến sự đối ứng về thanh điệu và vần, ở đây chỉ xin so sánh sơ qua về quan hệ giữa các âm đầu ở hai ngôn ngữ. Qua các dẫn liệu kể trên ta có thể nêu ra một vài nhận xét như sau:
a. Gần như có sự tương ứng “một đối một” từ các âm đầu l [l-], m [m-] và n [n-] của tiếng Việt so với tiếng Choang. Nhưng đối chiếu từ phía tiếng Choang sang tiếng Việt, thì có chút ít xê xích: Có 3 ngữ tố Choang mang âm đầu l [l-] lần lượt tương ứng với nh [ɲ-], r [ʐ-], tr [tʂ-] trong tiếng Việt.
b. Một số âm đầu của tiếng Việt tìm thấy sự tương ứng chủ yếu với một vài âm đầu trong tiếng Choang. Chẳng hạn như sau:
(V) b [b-] <> (Z) chủ yếu với b [p-], mb [b-], cá biệt với f [f-].
(V) c/k/q [k-] <> (Z) chủ yếu với g [k-], cá biệt với c [ɕ-], r [ɣ-].
(V) ch [c-] <> (Z) chủ yếu với c [ɕ-], cá biệt với y [j-], r [ɣ-], gy [kj-].
(V) đ [d-] <> (Z) chủ yếu với d [t-], cá biệt với nd [d-].
(V) g [ɣ-] <> (Z) chủ yếu với g [k-], r [ɣ-], cá biệt với g- [kh-] ng [ŋ-].
(V) h [h-] <> (Z) chủ yếu với h [h-], cá biệt với g [k-], zero [∅-].
(V) zero [∅-] <> (Z) chủ yếu với zero [∅-], cá biệt với h [h-].
(Trong phần dẫn liệu kê ra ở trên, các âm đầu zero [∅-] đều bị lược bỏ cho giản tiện).
Các âm đầu khác của tiếng Việt có quan hệ đối ứng khá phân tán với các âm đầu tiếng Choang, xin tạm không kể ra ở đây.
Những gì trình bày trên đây, từ dẫn liệu đến nhận xét chung, hẳn là chưa thật sự đầy đủ. Có thể vẫn cần được bổ chính trên nhiều tư liệu mới nữa.
Tài liệu tham khảo
1. de Rhodes, Alexandre. Từ điển Annam-Lusitan-Latin. Roma, 1651. Bản dịch tiếng Việt của Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, và Đỗ Quang Chính. Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Khoa học Xã hội, 1991.
2. 古壯字字典 (Sawndip Sawdenj), sơ cảo. Quảng Tây: Quảng Tây Dân tộc Xuất bản Xã, 1989.
3. Hoàng Phê, chủ biên. Tự điển tiếng Việt. 7th ed. Hà Nội – Đà Nẵng: Nxb Đà Nẵng – Trung tâm Từ điển học, 2000.
4. Huình Tịnh Của. Đại Nam quấc âm tự vị (Dictionarie Annamite). Saigon, 1895 (tập I); 1896 (tập II).
5. Nguyễn Quang Hồng, chủ biên. Tự điển chữ Nôm (Sơ thảo). Hà Nội: Nghiên cứu Hán Nôm, 1995.
6. Nguyễn Quang Hồng. “Hiện tượng đồng hình giữa chữ Nôm Việt và chữ vuông Choang.” Tạp chí Hán Nôm, no. 2 (1997).
7. Nguyễn Tài Cẩn. Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt (Sơ thảo). Hà Nội: Nxb Giáo dục, 1995.
8. 张公谨 等著. 民族古文献概览. 北京: 民族出版社, 1997.
9. 张元生 等编. 古壯字文献迭註. 天津: 天津古籍出版社, 1992.
10. 徐松石. 傣族 撞族 越族 考. In 民族学研究著作五种 (上). 广东: 广东人民出版社, 1993.
11. 王力. 同源字典. 北京: 商務印書舘, 1982.
Chú thích: Bài viết này của GS. TSKH. Nguyễn Quang Hồng là Báo cáo trình bày tại Hội thảo Ngôn ngữ học Đông Nam Á lần thứ 5, Tp Hồ Chí Minh, 2000. Đăng tạp chí Ngôn ngữ, 2001, N.13.Chúng tôi đã được sự đồng ý của tác giản để đăng lại bài viết này trên webiste của Digitizing Việt Nam

1. Chữ Hán và Chữ Nôm
Mặc dù trong giới khoa học lịch sử Việt Nam đang tồn tại những giả thiết về một thứ văn tự cổ đại nào đó của người Việt từ thời “các vua Hùng dựng nước” cách đây khoảng ba bốn ngàn năm, song nền văn hiến (ngữ văn) cổ điển Việt Nam còn lưu truyền đến ngày nay chỉ biết đến có chữ Hán và chữ Nôm trong lịch sử hình thành và phát triển của mình. Dĩ nhiên, khi cần có một cái nhìn toàn diện hơn về nền văn hiến chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã chung sống lâu đời trên dải đất hình chữ S hiện nay thì ngoài chữ Hán và chữ Nôm ra, còn cần phải kể đến một loạt các loại văn tự khác nữa như chữ Chăm ở phía Nam, chữ Thái ở phía Bắc, v.v… Song dẫu sao kho tàng văn hiến chữ Hán và chữ Nom vẫn là nên tảng của văn hiến cổ truyền Việt Nam.
Chữ Hán đã có mặt ở phương Nam khá sớm, có thể từ vài ba thế kỉ trước Công nguyên. Với sự thành lập nước Nam Việt (207-111 trước Công nguyên) của Triệu Đà, chữ Hán trở thành phương tiện hành chính cho cả người Hán và người Việt thời bấy giờ. Tuy nhiên, phải sang đầu Công nguyên, dưới thời nhà Hán, với sự tích cực truyền bá văn hoá Hán của các Thái thú như Tích Quang, Nhâm Diên và đặc biệt là Sĩ Nhiếp, chữ Hán mới thực sự trở thành công cụ trong tay người Việt. Tầng lớp trí thức và quan lại địa phương người Việt am hiểu và sử dụng được chữ Hán bắt đầu xuất hiện từ đó. Không phải ngẫu nhiên mà Sĩ Nhiếp (186-266) được người đời sau tôn xưng là “ Nam giao học tổ”. Tuy nhiên, những tư liệu về chữ Hán thời ấy và cả mấy thế kỷ tiếp sau đó trên đất Việt, đã không còn lưu truyền về sau. Văn bản chữ Hán có niên đại cổ nhất còn lại đến nay là bài văn bia Đại Tuỳ Cửu Chân quận Báo An đạo tràng chi bi văn, được phát hiện ở huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hoá, do Nguyễn Nhân Khí soạn năm Đại Nghiệp 14 (618) nhà Tuỳ (khổ bia 75cm x 150cm, chữ mòn mờ, hiện đặt tại Viện Bảo tàng lịch sử Việt Nam).
Tiếng Việt và tiếng Hán dù có thể bắt nguồn từ những ngữ hệ khác nhau (Hán – Tạng đối với tiếng Hán và Nam Á đối với tiếng Việt), song về mặt loại hình chúng lại rất gần nhau. Cả hai đều là ngôn ngữ thuộc loại đơn lập – âm tiết tính, mà đặc điểm chung cơ bản là mỗi âm tiết hầu như đều mang nghĩa, đều có thể được sử dụng như một từ mà không biến hình. Chính vì vậy mà chữ Hán với mô hình biểu âm biểu ý cho từng âm tiết một sẽ là hình ảnh lý tưởng cho văn tự tiếng Việt thời bấy giờ. Và trên đại thể, từ chữ vuông của tiếng Hán đến chữ vuông của tiếng Việt (chữ Nôm) là con đường không mấy chông gai. Bởi vậy, một văn bản chữ Nôm cho tiếng Việt thoạt nhìn qua thật khó phân biệt được nó với một văn bản chữ Hán.
Tuy nhiên, chữ Nôm đã không hình thành một các chóng vánh. Mới đầu chỉ là những chữ lẻ tẻ dùng để ghi tạm những tên đất, tên người, tên sản vật bản địa, xen lẫn vào các văn bản chữ Hán. Tình hình này có thể diễn ra ngay từ đầu Công nguyên, khi chữ Hán đã thực sự được người Việt sử dụng, không phải chỉ để đọc, mà còn để ghi chép, mô tả các sự kiện, con người và môi trường nước Nam. Nhưng từ đó để đi đến chỗ chế tác và định hình lên một hệ thống văn tự biểu âm biểu ý cho tiếng Việt còn phải trải qua một thời gian khá dài. Đây không hẳn là do phải trăn trở dai dẳng về các thao tác tạo chữ, mà điều tiên quyết là dân tộc phải được giải phóng, đất nước phải được độc lập, nhu cầu sử dụng chữ viết dân tộc phải trở thành bức xúc đối với đời sống văn hoá và tinh thần của người Việt. Cho nên phải chờ cho đến thời đại các triều Đinh, Lê, Lý, Trần (từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIV), khi nền độc lập đã được xây đắp vững chắc, ý thức dân tộc được khẳng định mạnh mẽ thì thứ chữ Nôm mới có đủ điều kiện trở thành một hệ thống văn tự hẳn hoi và các văn bản tiếng Việt bằng chữ Nôm mới dần dần xuất hiện. Theo sử sách ghi lại thì sự ra đời của chữ Nôm được đánh dấu bởi truyền thuyết về Hàn Thuyên (tức Nguyễn Thuyên) với bài văn Tế cá sấu và thơ phú bằng chữ Nôm của ông. Dưới thời Trần Nhân Tông (1279 – 1293) vào năm Thiệu Bảo 4 (Nhâm Ngọ, 1282) nhân có cá sấu vào sông Lô, nhà vua sai thượng thư Nguyễn Thuyên lập đàn và làm bài văn tế (bằng chữ Nôm?) ném xuống sông, cá sấu liền bỏ đi (theo Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ, Q.5). Bài thơ này và nhiều tác phẩm khác của ông nay đều bị thất truyền. Những tác phẩm chữ Nôm vào thời Trần còn truyền lại đến nay là mấy bài ca ngợi cảnh Thiền của nhà vua Trần Nhân Tông và nhà sư Huyền Quang (Cư trần lạc đạo phú, Đá thú lâm tuyền thành đạo ca, Vịnh Hoa Yên tự phú) trong sách Thiền tông bản hạnh (bản khắc in sớm nhất còn lại là vào năm Cảnh Hưng 6, tức 1745).
Từ đó về sau, cho đến những thập niên đầu thế kỷ XX, trong đời sống xã hội Việt Nam, chữ Hán và chữ Nôm vẫn luôn luôn sóng đôi tồn tại trong sự phân biệt và phối hợp sử dụng một cách hợp lý và có hiệu quả. Vai trò của chữ Hán và chữ Nôm ở Việt Nam trong quá khứ có thể được hình dung một cách khái quát như sau:
2. Vai trò của chữ Hán
Trong suốt hơn một ngàn năm Bắc thuộc, chữ Hán chiếm địa vị độc tôn ở Việt Nam. Theo sử sách ghi lại, từ thế kỷ XII đến thế kỷ IX, có một loạt trí thức người Việt cầm bút lông viết ngữ lục hoặc văn phú bằng chữ Hán. Một nhân vật tiêu biểu trong số họ là Khương Công Phụ (thế kỷ VIII), người Ái Châu (Thanh Hoá), từng sang thi Tiến sĩ ở Trung Hoa và đã đỗ đầu khoá với một bài phú và một bài văn sách chữ Hán (theo Toàn Đường văn, Q.446). Tuy nhiên, các văn bản chữ Hán của người Việt ở thời kỳ này lưu lại cho đến nay rất ít ỏi, mà truyền bản đều ở nước ngoài.
Điều đáng được lưu ý là chính vào thời kỳ các dân tộc Việt Nam giành được quyền độc lập tự chủ, vào lúc họ bắt tay xây dựng chính quyền của mình theo hình mẫu nhà nước phong kiến Trung Hoa thì chữ Hán mới được người Việt chủ động sử dụng một cách phổ biến và có hiệu quả trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội Việt Nam. Vai trò, chức năng của chữ Hán từ đó cho đến mãi về sau này được thể hiện như sau:
(1)Trước hết, trong lĩnh vực hành chính, các triều đại phong kiến Việt Nam, từ nhà Đinh (thế kỷ X) đến nhà Nguyễn (thế kỷ XX), luôn luôn sử dụng chữ Hán trong các giấy tờ chính thức của các cấp chính quyền. Từ chiếu chỉ, đạo dụ, sắc phong, cáo hịch… của triều đình ban ra cho đến tấu, biểu, đơn từ, v.v… của cấp dưới và dân chúng trình lên, hết thảy đều viết bằng chữ Hán. Người dân thường không biết chữ nên nếu có việc đều phải nhờ cậy hoặc thuê mướn người có học viết đơn từ hộ. Thảng hoặc lắm mới có một bức chỉ dụ, thư từ của vua (như trường hợp vua Quang Trung viết thư cho Nguyễn Thiếp, và phê vào đơn của các nho sĩ Bắc Hà) hoặc đơn từ, tờ tâu của dân chúng viết bằng chữ Nôm thuần tuý. Tiêu biểu cho các văn bản hành chính bằng chữ Hán là Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi (viết thay Lê Lợi), bộ Châu bản triều Nguyễn, tập hợp hơn 50.000 văn bản từ thời Gia Long đến thời Bảo Đại (hiện được lưu giữ tập trung tại Cục Lưu trữ Trung ương, Hà Nội).
(2) Cùng với hành chính là giáo dục và thi cử, trong đó từ sách vở kinh điển thánh hiền đạo Nho cho đến các loại văn bài trường ốc, đều bằng chữ Hán. Việc đào tạo nhân tài cho đất nước theo con đường Nho học được thực hiện một cách chủ động từ thời nhà Lý. Năm 1070, thời Lý Thánh Tông (1054 -1072) cho xây Văn Miếu – Quốc tử giám ở Thăng Long làm nơi học tập Hán văn cho hoàng thái tử. Và năm 1075 dưới thời Lý Nhân Tông (1072 – 1128), việc tuyển lựa hiền tài theo Nho học lần đầu tiên ở Việt Nam được tổ chức. Từ đó cho đến năm 1919 là năm mở khoá thi Hội cuối cùng (ở Huế), cả nước có tất cả 2.898 người đỗ đại khoa và đây là lực lượng trí thức chủ yếu gây dựng nền văn hiến cổ điển Việt Nam qua nhiều thế kỷ.
(3) Văn hoá thành văn (bao gồm các tác phẩm về lịch sử, địa lý, văn học, tôn giáo, tín ngưỡng, v.v…) của Việt Nam trong quá khứ được hình thành trước hết từ chất liệu chữ Hán. Bộ Đại Việt sử ký do sử thần Lê Văn Hưu hoàn thành năm 1272 dưới thời Trần Thánh Tông (1258 – 1278) là bộ chính sử đầu tiên ở Việt Nam, gồm 30 quyển, nay đã thất truyền, nhưng nó đã được kế thừa và phát triển qua các bộ chính sử có quy mô lớn hơn vào các triều đại sau như: Đại Việt sử ký toàn thư khắc ván in năm Chính Hoà 18 (1697) thời nhà Lê, Đại Việt sử ký tiền biền khắc in xong năm Cảnh Thịnh 8 (1800) thời Tây Sơn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục hoàn thành năm Tự Đức 34 (1881) thời nhà Nguyễn, v.v… Tương tự vậy, thời Lý có bộ luật Hình thư ban hành năm 1042, thời Trần có bộ Quốc triều hình luật ban hành năm 1244, nhưng đều thất truyền. Nay còn lại các bộ luật nổi tiếng như Quốc triều hình luật ban hành năm 1489 thời Lê Thánh Tông (còn gọi là Luật Hồng Đức), Hoàng triều luật lệ của nhà Nguyễn ban hành năm 1815 (còn gọi là Luật Gia Long), v.v… Nhiều công trình khảo cứu, ghi chép và mô tả thực tế con người và đất nước Việt Nam đã lần lượt xuất hiện dưới ngọn bút Hán văn thành thục của Lê Hữu Trác (1724 -1791), Lê Quý Đôn (1726 – 1784), Ngô Thì Sĩ (1726 – 1780), Ngô Thì Nhậm (1782 – 1840), v.v… Với chữ Hán, văn nhân nước Việt cũng đã tạo nên một nền văn chương có đủ các thể loại, đặc biệt là thơ phú và truyện ký. Về thơ thì hầu như không một bậc Nho học và Phật học nào của nước ta là không làm thơ chữ Hán. Riêng về truyện ký, đáng kể nhất là tập Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (giữa thế kỷ XVI) gồm 20 truyện ngắn lấy đề tài từ xã hội Việt Nam thời bấy giờ; bộ tiểu thuyết lịch sử Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái phản ánh thời kỳ tao loạn trong lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, và một loạt truyện ký, tiểu thuyết Hán văn khác, đặc biệt là của Phan Bội Châu (1867 – 1940), v.v… Không chỉ với Nho gia, chữ Hán cũng là phương tiện quan trọng để truyền bá kinh sách đạo Lão, đạo Phật ở Việt Nam. Chữ Hán đã thâm nhập khá sâu vào các đền thờ, miếu mạo, chùa chiền và cả các di tích, danh lam… Đó là thứ văn tự đầy vẻ trang nghiêm, thích hợp cho việc làm văn bia để ghi tạc công đức và thờ cúng người xưa, khắc lên hoành phi, câu đối để trang trí nơi công cộng và cả tư gia. Dĩ nhiên, ở những không gian và môi trường văn hoá này, người Việt cũng sử dụng cả chữ Nôm.
3. Vai trò của chữ Nôm
Khi chữ Nôm ra đời và dần dần được hoàn thiện một cách tự phát ở người sử dụng (mà đồng thời cũng là người sáng tạo) thì chữ Hán đã có một lịch sử “cư trú” lâu đời và phục vụ đắc lực cho xã hội người Việt trong nhiều lĩnh vực của đời sống tinh thần, đặc biệt là trong công việc hành chính và đào tạo nhân tài cho đất nước. Đây không hẳn là do uy tín của bản thân chữ Hán, mà là do ưu thế của một nền văn hoá Trung Hoa có sức lan toả trong khu vực thời trung đại thông qua chữ Hán mà người Việt cũng như nhiều dân tộc khác đã từ bị động đến chủ động tiếp nhận. Cho nên, sẽ là không thoả đáng nếu đặt ra cho chữ Nôm nhiệm vụ phải giành giật lại cho mình những vai trò mà chữ Hán từ lâu đã nắm giữ một cách xứng đáng. Trong lịch sử Việt Nam cũng đã từng có một vài vị vua quan tâm đến chữ Nôm, muốn sử dụng nó trong giao dịch hành chính (như Hồ Quý Ly, Nguyễn Huệ) và có cả những trí thức muốn cải cách văn tự, dùng chữ Nôm thay cho chữ Hán (như Nguyễn Trường Tộ trong Tế cấp bát điều dâng vua Tự Đức). Song, tất cả những ý tưởng và thử nghiệm rất đáng trân trọng đó đều chỉ thoảng qua và chưa kịp để lại một dấu ấn gì rõ rệt cho chữ Nôm. Vậy thì, trong những bối cảnh như thế, chữ Nôm đã “thi thố” khả năng của mình ra sao để có thể cũng với chữ Hán góp phần xây dựng nền văn hiến cổ điển Việt Nam?
(1) Trước hết, có những lĩnh vực mà chữ Hán tỏ ra yếu thế, thậm chí là bất lực và phải nhường chỗ cho chữ Nôm thực hiện vai trò của mình. Ít nhất có ba lĩnh vực sau đây để chữ Nôm phát huy khả năng của mình một cách tối ưu:
(a) Người Việt, cũng như nhiều dân tộc khác, từ lâu trước khi có chữ viết, họ đã có một kho tàng văn hoá truyền miệng phong phú và đa dạng. Đó là những câu chuyện kể, những lời ca tiếng hát, những câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ, câu đố, v.v… lưu truyền trong dân gian. Rõ ràng là để ghi chép, sưu tập, chỉnh lý kho tàng văn hoá truyền miệng bằng tiếng Việt này, không gì thích hợp và trung thực hơn là trực tiếp dùng chữ Nôm (chứ không phải dịch sang Hán văn). Và trên thực tế cũng đã có không ít những sưu tập như thế được thực hiện bằng chữ Nôm, như sách Lý hạng ca dao chép 256 bài ca dao; sách Nam quốc phương ngôn tục ngữ bị lục gồm 27 mục chép các bài ca dao, tục ngữ, câu đố; sách Nam ca tân truyện ghi lại các bài hát cổ theo các điệu ca ở Huế v.v… Có thể kể vào đây một loạt các vở tuồng cổ và chèo cổ như Văn Duyên diễn hí, Trương Viên diễn ca, Lưu Bình trò, v.v…
(b) Chữ Nôm được viết dưới hình thức văn vần là một cách thích hợp và hiệu quả nhất cho việc phổ cập, truyền bá các tri thức thuộc mọi lĩnh vực khác nhau. Trước hết, đó là những bộ sách diễn ca lịch sử như Việt sử diễn âm (thế kỷ XVI), Thiên Nam minh giám (nửa đầu thế kỷ XVII), Thiên Nam ngữ lục (nửa cuối thế kỷ XVII), Đại Nam quốc sử diễn ca (thế kỷ XIX) v.v… Quả thật, đa số dân chúng không biết chữ Hán và chữ Nôm, nhưng nhờ có những tác phẩm văn vần chữ Nôm như vậy mà họ được nghe đọc, nhiều lần thì nhập tâm mà thuộc lòng từng đoạn, có khi cả tác phẩm dài hàng ngàn câu. Cũng tương tự như vậy đối với các tác phẩm chữ Nôm “diễn ca” hoặc “diễn âm”: về luật lệ như Hoàng Việt luật lệ toát yếu diễn ca, về y học như Chẩn đậu diễn ca, v.v…
(c) Vai trò nổi bật của chữ Nôm được thể hiện trong các sáng tác văn chương. Mặc dù văn nhân mọi thời đều đã dùng chữ Hán để làm thơ, viết truyện, song chỉ với chữ Nôm, người Việt mới có điều kiện để làm nên những tác phẩm văn học bất hủ của dân tộc. Tập thơ Nôm có niên đại sớm nhất còn lại đến nay là Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi (1380 – 1442), sau đó là Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) với Bạch Vân am quốc ngữ thi. Điều đặc biệt là, nếu như với chữ Hán, ta đã có những tập truyện ngắn và tiểu thuyết văn xuôi, thì với chữ Nôm, ta hầu như lúc nào cũng có thể bắt gặp văn vần đủ các thể loại. Nổi bật và có nhiều thành tựu nhất là thơ ca trường thiên theo thể lục bát và song thất lục bát. Chính với hai thể thơ này mà vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX văn học cổ điển Việt Nam đạt tới những đỉnh cao mà thế giới đã biết đến: đó là Chinh phụ ngâm khúc của Đoàn Thị Điểm (1705 – 1748), Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) của Nguyễn Du (1766 – 1820) . Với thơ ca chữ Nôm, ta còn gặp các tên tuổi sáng tác khác nữa từ thế kỷ XIII đến đầu thế kỷ XX như Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Gia Thiều, Phạm Thái, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, v.v… Chính nhờ họ mà tiếng Việt đã được trau giồi trên cơ sở hấp thu hai nguồn ngữ liệu: ngữ liệu chữ Hán và ngữ liệu văn hoá dân gian Việt để trở thành một nền văn chương trong sáng và giàu sức biểu hiện.
(2) Mặt khác, chữ Nôm không phải bao giờ cũng “độc lập tác chiến”, mà đã biết phối hợp cùng chữ Hán để tạo nên các tác phẩm cụ thể, hộ trợ cùng nhau để sáng tạo và lưu truyền văn hoá. Có thể nhận thấy điều này qua những hiện tượng sau đây:
(a) Không kể những trường hợp một số chữ Nôm lẻ tẻ có thể xuất hiện bất kỳ trong các tác phẩm Hán văn bác học khi cần thiết thì trong dân gian chữ Nôm hầu như thường xuyên được dùng xen kẽ với chữ Hán để ghi chép sinh hoạt làng xóm, hương ước, địa chí, thần phả, tộc phả, sổ sách, đơn từ, khế ước, v.v… Bên cạnh chữ Hán, chữ Nôm cũng xuất hiện trong các câu đối, hoành phi, bia đá, chuông đồng ở đình chùa miếu mạo… Còn có cả một thể loại thơ ca rất được lớp nho sĩ bình dân ưa chuộng là hát nói (trong ca trù), trong đó giữa những lời hát thuần chữ Nôm tiếng Việt thường xen kẽ mấy câu đặc chữ Hán.
(b) Chữ Nôm còn được sử dụng một cách đắc lực vào việc phiên chuyển văn bản và phổ biến văn hoá thành văn. Chẳng hạn như sau:
Các kinh sách cổ điển của đạo nho, đạo Lão, đạo Phật từ Hán văn có thể được chuyển dịch sang chữ Nôm theo hai cách: Hoặc là lược thuật đại ý và chuyển thành văn vần chữ Nôm để dễ phổ cập (như sách Luận ngữ thích nghĩa ca diễn Nôm thể lục bát 20 thiên sách Luận ngữ); hoặc là trực dịch từng câu Hán văn sang câu chữ Nôm (như sách Thi kinh giải âm dịch nghĩa toàn bộ hơn 300 bài thơ trong Thi kinh sang chữ Nôm). Một số văn bản từ các ngôn ngữ phương Tây đôi khi cũng được lược dịch sang văn xuôi chữ Nôm, như bộ Các Thánh truyện (1646) do Jeronijimo Maijorica chủ biên (12 tập, hiện còn 11 tập, 1.672 trang).
Tương tự như vậy, một số tác phẩm văn xuôi chữ Hán của Việt Nam cũng được người đời sau phiên chuyển sang văn xuôi chữ Nôm theo kiểu trực dịch từng câu. Tiêu biểu là bản “giải âm” tương truyền của Nguyễn Thế Nghi (cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII) cho bộ Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (giữ thế kỷ XVI) và phần dịch chữ Nôm trong tác phẩm Cổ Châu Phật bản hạnh ngữ lục (thế kỷ XVI) mà bản khắc hiện còn lưu trữ tại chùa Dâu.
Có một loạt các sách công cụ, trong đó chữ Nôm được dùng để giải nghĩa các từ ngữ chữ Hán, được soạn ra theo các thể văn vần. Sử dụng các bộ sách này, người ta đồng thời học được chữ Hán lẫn chữ Nôm. Thuộc vào loại này có thể kể đến các sách như Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa (thế kỷ XIV và XVII), Tam thiên tự giải âm của Ngô Thì Sĩ (thế kỷ XVIII), Nhật dụng thường đàm của Phạm Đình Hổ (thế kỷ XVIII), Tự học giải nghĩa ca thời Tự Đức (thế kỷ XIX), Đại Nam quốc ngữ của Nguyễn Văn San (thế kỷ XIX), v.v…
4. Vài nhận xét bổ sung
Ở đây, cần phải lưu ý thêm một điều là chữ Hán và chữ Nôm ở Việt Nam, dù được sử dụng chuyên biệt hay trong sự phối hợp với nhau, đều có thể được định hình như nhau bằng đủ các phương thức thủ công cổ truyền. Các phương thức định hình chủ yếu là: (a) Viết tay bằng bút lông lên giấy, vải, lụa, hoặc bất kỳ một mặt phẳng nào có thể được; (b) Dùng dao, đục… khắc lên các vật rắn như gỗ, đá, đồng… để tạo thành các bản văn khắc (bia, chuông, biển, v.v…); (c) Dùng gỗ khắc chữ ngược lên ván gỗ tạo nên các khuôn in để in ấn hàng loạt trên giấy. Chính nhờ phương thức in ấn thủ công này mà các tác phẩm chữ Hán và chữ Nôm của người Việt được nhân bản và lưu truyền rộng rãi. Điều này kích thích sự phát triển nền văn hiến chữ Hán và chữ Nôm trong quá khứ, kể từ thời trung đại về sau. Cho đến những năm đầu thế kỷ XX, nhiều nhà sách vẫn tổ chức khắc ván in đi in lại nhiều tác phẩm Hán-Nôm và bán ra rất chạy trên thị trường sách đương thời.
Cũng cần nhấn mạnh thêm rằng, ngay từ thế kỷ XI trở đi, khi người Việt chủ động sử dụng chữ Hán cho công việc của mình, họ bắt đầu đọc chữ Hán theo cách phát âm cuối Đường đầu Tống và dần dần thoát ly khỏi cách phát âm chữ Hán ở quê hương của nó, ngả dần theo sự chi phối ít nhiều của ngữ âm tiếng Việt. Đó là cách phát âm Hán – Việt. Với cách phát âm này, tiếng Hán và cả chữ Hán trở nên rất quen thuộc với người Việt, cảm giác “ngoại ngữ” đối với nó đã mờ nhạt dần. Bởi vậy, một điều đương nhiên là chữ Nôm ra đời không phải để tẩy chay chữ Hán, mà chỉ là để cùng với chữ Hán đảm nhiệm những phần việc cần thiết của mình đối với đời sống xã hội người Việt Nam, như những gì đã được trình bày ở trên.
Từ đầu thế kỷ XX trở lại đây, chữ Việt phiên âm theo tự mẫu La-tinh (quen gọi là chữ Quốc ngữ), đã dần dần thay thế vai trò của chữ Hán và chữ Nôm trong hầu hết các chức năng xã hội của chúng. Tuy nhiên, với bề dày của nền văn hiến Hán Nôm, chức năng thể hiện và chuyển tải văn hoá cổ truyền của chữ Hán và chữ Nôm sẽ không bao giờ bị xoá nhoà. Trong lòng người dân Việt Nam hôm nay, chữ Hán và chữ Nôm vẫn luôn luôn là chiếc cầu nối thiêng liêng giữ quá khứ với hiện tại và tương lai trong đời sống văn hoá của tất cả họ, kể cả tầng lớp trí thức, lẫn người dân bình thường.
Tài liệu tham khảo
Đào Duy Anh. Chữ Nôm – nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1975.
Nguyễn Tài Cẩn. Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, NXB Khoa học xã hội, 1979.
Phan Huy Chú. Lịch triều hiến chương loạt chí. Sách chữ Hán chép tay, 49 quyển. Kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm. (A. 1551/ 1-8)
Trần Văn Giáp. Tìm hiểu kho sách Hán Nôm (Thư tịch chí Việt Nam). Tập I, NXB Văn hoá, Hà Nội, 1984; Tập II, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990.
Nguyễn Quang Hồng (chủ biên). Văn khắc Hán Nôm Việt Nam (Tuyển chọn và lược thuật). NXB Khoa học xã hội, 1992.
Nguyễn Quang Hồng. “Di sản Hán Nôm nhìn từ góc độ của khoa học ngữ văn”. Tạp chí Hán Nôm, 1987, N.2.
Trần Nghĩa, Francois Gros (chủ biên). Di sản Hán Nôm Việt Nam (Thư mục đề yếu). Ba tập. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993.
Ngô Đức Thọ (chủ biên). Các nhà khoa bảng Việt Nam (1075 – 1919). NXB Văn học, Hà Nội, 1993.
Bài viết này của GS. TSKH. Nguyễn Quang Hồng là tham luận trình bày tại Hội thảo kỷ niệm 50 năm thành lập Hội văn hoá chữ Hán ở Nhật Bản, Tokyo, 3/1999. Đăng tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, 1999, N.5 (43). Chúng tôi đã được sự đồng ý của tác giản để đăng lại bài viết này trên webiste của Digitizing Việt Nam

Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam tại Đại học Fulbright Việt Nam, phối hợp với Khoa Nghiên cứu Việt Nam thuộc Đại học Hamburg, trân trọng kính mời quý vị tham dự buổi tọa đàm thứ ba trong chuỗi Diễn đàn Văn hoá Việt Nam:
“Chữ Nôm: Ý thức văn tự và chiến lược bảo tồn ngôn ngữ của cộng đồng thiểu số người Kinh (Việt) tại miền Nam Trung Quốc”
🗓 Thời gian: Thứ Sáu, ngày 11 tháng 7 năm 2025
🕑 Giờ: 2:30 – 4:00 chiều (giờ Trung Âu – CEST)
7:30 – 9:00 tối (giờ Việt Nam)
📍 Địa điểm: Universität Hamburg – Asien-Afrika-Institut, Edmund-Siemers-Allee 1, Phòng 121 (trực tiếp)
💻 Phát trực tiếp qua Zoom:
Zoom ID: 656 2963 9166
Mật khẩu: 53265783
Buổi tọa đàm sẽ khai thác vai trò biểu tượng và thực tiễn của chữ Nôm như một hệ thống văn tự văn hóa, đồng thời trình bày các chiến lược khác nhau mà cộng đồng người Việt (Kinh) tại miền Nam Trung Quốc sử dụng nhằm bảo tồn ngôn ngữ và bản sắc của mình. Dựa trên kết quả nghiên cứu thực địa và phân tích liên ngành, TS. Nguyễn Tô Lan sẽ mang đến một góc nhìn sâu sắc về ý thức văn tự, bản sắc ngôn ngữ và chính trị di sản xuyên quốc gia.
Sự kiện được trình bày bằng tiếng Anh và mở cửa tự do.

Phát hiện tình cờ ở chùa Dâu
Vào cuối thập niên 80 – đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, một nhóm các nhà nghiên cứu thuộc Viện Nghiên cứu Hán Nôm có dịp về thăm chùa Dâu (còn có các tên chữ Hán là chùa Diên Ứng, chùa Pháp Vân, chùa Cổ Châu) ở Thuận Thành, Hà Bắc (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh). Chuyến đi nhằm phục vụ công tác điều tra, thu thập tư liệu chữ Hán chữ Nôm tại ngôi chùa nổi tiếng cổ kính vùng Kinh Bắc này.
Lúc bấy giờ, ở gian chái bên phải nhà Tổ của chùa là một kho chứa đủ các thứ gia cụ và nông cụ như nong, nia, thúng mủng, cào cuốc, gàu tát nước… Rất tình cờ, nhóm nghiên cứu đã nhìn thấy trong kho có để lẫn lộn nhiều tấm ván khắc tác phẩm “Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục” 古珠法雲佛本行語錄, điều đặc biệt là bộ ván khắc này vẫn còn trọn vẹn toàn bộ.
Tác phẩm này vốn đã được lưu giữ tại kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm, mang ký hiệu A.818, trước đó do Học viện Viễn Đông Bác cổ Pháp ở Hà Nội sưu tầm. Nhưng điều khiến nhóm nghiên cứu càng hào hứng hơn là việc họ phát hiện thêm hai bộ ván khắc khác liên quan, gồm: Tác phẩm văn vần chữ Nôm “Cổ Châu Phật bản hạnh” 古珠佛本行 và tác phẩm chữ Hán “Hiến Cổ Châu Phật tổ nghi” trong献古珠佛祖儀. Có một điều đáng chú ý là, bản in của hai tác phẩm này không hề có mặt tài liệu của Học viện Viễn Đông Bác cổ, và cũng chưa từng xuất hiện trong kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm vào thời điểm đó.
Ba tác phẩm: Ba thể loại, một mạch nội dung
Ba tác phẩm này có mối liên quan chặt nhẽ với nhau trước hết là ở mặt nội dung. Trong khi “Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục” và “Cổ Châu Phật bản hạnh” kể lại sự tích bà A Man cùng các vị Phật thuộc hệ Tứ Pháp và tán dương công đức của họ thì “Hiến Cổ Châu Phật tổ nghi” là những bài văn cúng tỏ lòng tưởng nhớ của hậu thế đến chư Phật. Hai tác phẩm đầu đều có nội dung cơ bản như nhau, điểm khác biệt giữa hai tác phẩm này là ở chỗ, “Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục” là văn bản cổ truyền, được khắc in nguyên văn chữ Hán, kèm theo lời diễn Nôm, tất cả đều là văn xuôi; còn “Cổ Châu Phật bản hạnh” lại hoàn toàn được viết bằng chữ Nôm theo văn vần thể lục bát vốn rất dễ đọc thuộc trong dân gian. Và tác phẩm thứ ba, “Hiến Cổ Châu Phật tổ nghi”, lại được viết với lối văn ngôn chữ Hán. Ba tác phẩm này đã được những người san khắc trong chùa đặt tên gọi tắt, lần lượt là: “Cổ Châu lục”, “Cổ Châu hạnh” và “Cổ Châu nghi”.
“Cổ Châu lục”: Bản dịch Nôm độc đáo
Nguyên văn chữ Hán tác phẩm “Cổ Châu lục” dài ngót 2.100 chữ, được ghi rõ là từ xưa truyền lại, không rõ tác giả. Cứ mỗi câu (hoặc một cú đoạn) nguyên văn chữ Hán thì có một câu tiếp theo dịch ra chữ Nôm, được khắc chữ nhỏ bằng nửa chữ Hán nguyên văn. Lối “dịch đuổi” và trình bày trên văn khắc như vậy là rất thường thấy ở một số tác phẩm Hán Nôm từ thời Lê Trịnh. Theo như thông tin được khắc ở bộ ván khắc tác phẩm này, việc san khắc ván in này được hoàn thành vào mùa Thu năm thứ 13 niên Hiệu Cảnh Hưng (1752) triều Lê. Theo một loạt các phân tích dựa theo cứ liệu văn bản lịch sử, có thể đoán định rằng, vào khoảng giữa hoặc cuối thế kỷ XIV (cuối nhà Trần) thì cổ bản Hán văn của “Cổ Châu lục” đã xuất hiện.
Phần diễn Nôm trong bộ ván khắc “Cổ Châu lục” gồm 2.360 chữ, do Viên Thái (chưa xác định rõ lai lịch) thực hiện. Điều đặc biệt là, cách viết chữ Nôm trong bản khắc in có cả chữ giả tá ghi âm thuần tuý, lẫn chữ hình thanh nửa biểu âm nữa biểu ý, song nhìn chung, chữ giả tá ghi âm thuần tuý vẫn chiêm ưu thế. Có không ít những chữ mà ở các văn bản có niên đại muộn, đã hầu như chuyển hẳn sang lối viết gồm hai thành tố ghi âm và ghi ý (hình thanh), thì trong bản ván khắc này vẫn viết khá nhất quán theo lối giả tá ghi âm đơn thuần (chẳng hạn như, BA viết là 巴 Ba, TÊN viết là 先 Tiên, NAY viết là 尼 Ni…).
Không những thế, trong văn bản dịch Nôm của “Cổ Châu lục” có khá nhiều từ ngữ và cách diễn đạt cổ (như “Hay chưng thầy thửa ở” [biết được nơi ở của thầy] hay “Thực thời lỗi ấy chưng ai” [Chính thực thì lỗi ấy là do ai]...) và những tiếng cổ như 谷 “cóc”: biết, 沃 “óc”: gọi, 合 “hợp”: nên, 羅𥒥 “la-đá”: đá… Tình hình viết chữ và dùng chữ như vậy là khá phổ biến trong văn xuôi diễn Nôm ở thế kỷ XVI và XVII. Riêng từ “la-đá” 羅𥒥 , chỉ có thể tìm thấy ở các văn bản chữ Nôm từ thế kỷ XVII về trước, muộn nhất là trong “Từ điển Việt-Bồ-La” của A. de Rhrodes (1651). Sang đến thế kỷ XVIII, trong “Từ điển Việt-La” viết tay (hoàn thành năm 1773) của Pigneau de Béhaine đã không có mặt từ song tiết “la-đá” nữa, mà chỉ còn là từ đơn tiết “đá” như ngày nay. Từ cách “dịch đuổi” từng câu đối với nguyên tác chữ Hán và cách viết chữ song tiết như trên, bản diễn Nôm của tác phẩm “Cổ Châu lục” được nhận định là đã hình thành vào khoảng cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII.
“Cổ Châu hạnh”: Lục bát chữ Nôm
“Cổ Châu hạnh” gồm 246 cặp lục bát khoảng 3.450 chữ, tác giả của tác phẩm văn vần lục bát bằng chữ Nôm này cũng không rõ là ai, song có một vài chi tiết từ trong tác phẩm này giúp người ta có căn cứ để đoán định niên đại của nó. Trước hết, đó là niên hiệu Hồng Đức (1470-1497) dưới triều vua Lê Thánh Tông, được nhắc đến cuối tác phẩm, sau đó không còn nhắc đến triều đại nào nữa. Sau nữa, tác giả gọi nước Trung Hoa thời xưa là Đại Minh, theo cách gọi tên nước thời nhà Minh (1368-1640). Chỉ có người đương thời mới quen cách gọi tên đất nước sát liền phía Bắc biên giới nước Đại Việt như vậy. Từ đó có thể suy ra, “Cổ Châu hạnh” không thể ra đời muộn hơn năm 1644 và cũng không thể có mặt sớm hơn năm 1470. Tuy nhiên đây là một giới hạn thời gian quá rộng. Có lẽ là “Cổ Châu hạnh” khó có khả năng xuất hiện trước bản diễn Nôm trong “Cổ Châu lục”, mà rất có thể là đồng thời hoặc sau một chút, tức là cũng vảo vào khoảng cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII.
“Cổ Châu nghi”: Văn cúng Phật tổ
Toàn văn “Cổ Châu nghi” gồm hơn 1.500 chữ Hán viết theo lối văn ngôn, căn cứ vào những dòng chữ khắc ngay ở tấm ván khắc đầu tiên của tác phẩm, bên dưới tên tác phẩm, có thể nhận biết rằng “Cổ Châu nghi” vốn cũng là những văn bản chữ Hán đã được soạn ra từ thời xưa, nhưng không rõ cụ thể từ thời nào. Công việc san khắc “Cổ Châu nghi” tại chùa Dâu được hoàn tất vào năm Nhâm Tý, niên hiệu Quang Trung 5 (tức năm 1792), dưới triều Tây Sơn Nguyễn Huệ.
Trở về sau quên lãng
Từ những năm còn chiến tranh, một số nhà nghiên cứu đã biết đến kho ván khắc ở chùa Dâu. Mặc dù vậy, cho đến thời điểm nhóm nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Hán Nôm phát hiện ra kho ván khắc di văn chùa Dâu, tức là vào cuối thập niên 80 đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, kho ván khắc này vẫn hầu như chưa được khảo sát giới thiệu và vẫn nằm im trong tình trạng như khi được phát hiện.
Năm 1995, bộ ba ván khắc Cổ Châu cùng một số văn bản liên quan đã được công bố trong cuốn sách “Di văn chùa Dâu”, do GS. Nguyễn Quang Hồng chủ biên, đánh dấu sự trở về của những di sản từng chìm khuất trong bụi thời gian.
(Theo “Bộ ba ván khắc ‘Cổ Châu’ và di văn Hán Nôm chùa Dâu” trong sách “Ngôn ngữ. Văn tự. Ngữ văn” của GS. Nguyên Quang Hồng)